Trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ và đối mặt với những thách thức toàn cầu chưa từng có, đặc biệt là biến đổi khí hậu và khan hiếm nguồn tài nguyên. Ngành nông nghiệp Việt Nam, đóng vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế (đảm bảo sinh kế cho khoảng hơn 60% dân số nông thôn, chiếm 30% lao động, đóng góp gần 12% GDP), áp lực đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết trong bối cảnh Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu với hơn 70% dân số thường xuyên bị tác động bởi bão lũ, thiên tai, xâm ngập mặn.
Ngoài những tác động bởi thiên tai, mô hình sản xuất nông nghiệp hiện nay cũng phải đối mặt với nhiều thách thức nội tại như: nguy cơ giảm năng suất của các cây trồng chủ lực trong thập kỷ tới, tình trạng suy thoái đất trầm trọng, sự phụ thuộc quá lớn vào kinh nghiệm truyền thống cũng thiếu liên kết trong chuỗi giá trị.
Theo các số liệu thống kê cho thấy, 43% diện tích đất bị thoái hóa là đất sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học... trong sản xuất vô tình làm triệt tiêu hệ sinh vật có ích trong đất, giảm độ tơi xốp và khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây trồng, từ đó làm ảnh hưởng "sức khỏe" đất, cây trồng, thoái hóa đất nông nghiệp.
Những thách thức này đặt ra cho ngành nông nghiệp Việt Nam cần có những bước chuyển mình mạnh mẽ, có những giải pháp nhằm thích ứng với những thách thức, biến đổi đó. Nông nghiệp chính xác không còn là tương lai mà đã trở thành thực tế tại nhiều quốc gia từ những mô hình được ứng dụng IoT, trí tuệ nhân tạo (AI), GPS, dữ liệu lớn (Big Data), Robot tự động hóa,... để phục vụ cho canh tác, sản xuất, giúp giảm chi phí, tăng năng suất đồng thời bền vững về mặt môi trường, làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới và ngày một gần hơn với nông dân Việt Nam.
Chuyển đổi số hiện nay trong các vấn đề của đời sống nói chung cũng như ngành nông nghiệp nói riêng không còn là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu tất yếu. Trong bối cảnh ngành nông nghiệp và môi trường đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ như biến đổi khí hậu gay gắt, tài nguyên suy giảm và áp lực tăng trưởng xanh, các mô hình sản xuất truyền thống không còn phù hợp.
Do đó, để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm và bảo vệ môi trường sống, toàn ngành cần đổi mới tư duy và lấy khoa học công nghệ, chuyển đổi số làm nền tảng phát triển.
Nông nghiệp chính xác (Precision Agriculture) hay rộng hơn là nông nghiệp thông minh là một hệ thống canh tác dựa trên việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến như Internet vạn vật (IoT), Trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ tự động hóa và phân tích dữ liệu.
Các nghiên cứu cho thấy, mô hình sản xuất chính xác có thể giúp tiết kiệm tới 40-60% nước, giảm đáng kể lượng phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật, đồng thời tăng năng suất từ 20-30% so với phương thức truyền thống. Những con số không chỉ minh chứng cho hiệu quả kinh tế mà còn cho thấy tác động tích cực đến môi trường.
Các công nghệ nông nghiệp chính xác có thể cải thiện công tác quản lý tài nguyên thông qua việc áp dụng các yếu tố đầu vào một cách chính xác như: nước, phân bón, thức ăn chăn nuôi,... từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp chính xác đem lại những lợi ích thiết thực cho người nông dân, lợi ích cho môi trường, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng xanh, bền vững, đáp ứng được yêu cầu trong kỷ nguyên mới, nâng cao năng suất, giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng được những yêu cầu từ chuỗi giá trị toàn cầu.
Không còn vất vả như những năm trước, thời gian gần đây, nhiều nông dân sản xuất quy mô lớn có thể hoàn thành công việc chỉ trong vài ngày.
Cánh đồng lớn của anh Nguyễn Văn Hùng tại thôn 4, xã Việt Khê (TP Hải Phòng) với diện tích hơn 46,5 ha, là một ví dụ điển hình. Chỉ trong một buổi sáng nhờ áp dụng công nghệ, anh huy động máy bay không người lái (Drone) để bón phân toàn bộ cánh đồng trong vòng vài phút. Đồng thời, hệ thống máy cấy tích hợp thiết bị dẫn đường nhanh chóng hoàn thành việc cấy lúa. Trước đó, khâu làm đất cũng nhẹ nhàng hơn nhờ sử dụng máy cày công suất lớn và máy san phẳng mặt ruộng.
Nhiều hộ nông dân sản xuất lớn, nay đã không còn tất bật với công việc đồng áng nhờ sự hỗ trợ của máy móc hiện đại. Anh Bùi Năng Nhuận, nông dân thôn Hoành Bồ, xã Bắc Thanh Miện (TP Hải Phòng) cho biết, trước đây sản xuất nhỏ, lẻ chủ yếu đến vụ cấy thủ công hoặc đổi công cho nhau nhưng nay diện tích sản xuất đã lên đến 5 ha, gia đình cũng đã phải thay đổi phương thức sản xuất truyền thống mà thay vào đó là ứng dụng công nghệ, mua sắm máy móc mới đẩy nhanh tiến độ sản xuất, tiết kiệm nhân công lao động; đồng thời chủ động sản xuất.
Theo ông Trần Mạnh Hùng, Chủ tịch Hiệp hội CLB Đại điền Hải Phòng, khi bắt đầu xây dựng các cánh đồng công nghệ, các thành viên trong câu lạc bộ đã mạnh dạn tiên phong dù còn nhiều khó khăn, đặc biệt là về thiết bị, máy móc. Ban đầu, máy móc hỗ trợ còn thiếu thốn, nên các thành viên tự đầu tư dần dần, sau đó cùng nhau chia sẻ, hỗ trợ trong quá trình sản xuất.
Đến nay, tại khu vực phía Đông Hải Phòng, khoảng 75% thành viên CLB trang bị máy móc hiện đại phục vụ sản xuất, trong đó, 45% sở hữu máy bay không người lái và thiết bị dẫn đường tự động, từng bước hướng tới xây dựng những cánh đồng công nghệ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tại khu vực Tây Hải Phòng, quy mô sản xuất của đại điền nhỏ hơn nhưng 100% đại điền mua sắm được máy móc như máy cày, máy gặt đập; 10 đại điền sắm được máy bay không người lái. Các đại điền đều hỗ trợ nhau về máy móc để thuận tiện sản xuất...
Khi đến thăm một số cánh đồng công nghệ tại Hải Phòng, các nhà khoa học và chuyên gia nông nghiệp đã đánh giá cao cách làm sáng tạo, chủ động của nông dân địa phương. GS.TS Mai Quang Vinh, đại diện Hiệp hội Chuyển đổi xanh, nhận định: "Nông dân Hải Phòng mạnh dạn đi đầu trong việc xây dựng mô hình cánh đồng công nghệ, vượt lên so với nhiều tỉnh, thành phía Bắc. Mô hình này không chỉ phát huy lợi thế vùng mà còn tận dụng hiệu quả từng "tấc đất, tấc vàng", góp phần nâng cao năng suất, gắn kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm".
Theo khảo sát bước đầu của Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Hải Phòng, mô hình cánh đồng công nghệ giúp giảm 30–40% nhân công, tăng năng suất từ 5–10% so với phương pháp truyền thống. Đồng thời, mô hình còn tiết kiệm 30-40% lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, góp phần giảm ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt, lượng phát thải khí nhà kính giảm 20-30%, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh và hướng tới thị trường xuất khẩu chất lượng cao.
Được xem như là vựa lúa lớn nhất cả nước, tại nhiều địa phương thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long những nằm gần đây cũng gặp nhiều thách thức do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp với tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt bất thường. Ngoài ra, việc canh tác truyền thống cùng với việc sử dụng lượng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cao làm gia tăng chi phí sản xuất, ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính.
Ngày 27/11/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1490/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Đây là Đề án có ý nghĩa chiến lược, nhằm tái cơ cấu sản xuất lúa gạo, nâng cao thu nhập cho nông dân, đồng thời khẳng định vai trò và trách nhiệm của Việt Nam trong thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính.
Để thực hiện Đề án, hệ thống khuyến nông và khuyến nông cộng đồng luôn giữ vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp đồng hành cùng nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp trong tổ chức sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, giảm phát thải và xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam.
Theo Trưởng phòng Khuyến nông Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông quốc gia) Hoàng Tuyển Phương: "Trong hai năm 2024 và 2025, Trung tâm phối hợp các địa phương và đơn vị triển khai 7 mô hình thí điểm chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long. Sau 3 vụ triển khai, các mô hình cho thấy giảm chi phí sản xuất từ 8,2 đến 24,2% so với mô hình đối chứng thông qua việc giảm 30 đến 50% lượng giống, 30 đến 70 kg phân bón/ha, 30 đến 40% lượng nước tưới, 1 đến 4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật. Các mô hình năng suất tăng từ 2,4 đến 7,0%, thu nhập tăng 12 đến 50%, tương ứng 4 đến 7,6 triệu đồng/ha so với đối chứng; giảm phát thải khí nhà kính từ 2 đến 12,0 tấn Co2/ha và khắc phục tối đa tình trạng đốt rơm rạ sau thu hoạch, giảm thiểu ô nhiễm môi trường".
Sau 2 năm thực hiện đề án, vừa qua, ngày 23/12, Sở Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) TP Cần Thơ tổ chức Hội nghị sơ kết Đề án "Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" (gọi tắt là Đề án) giai đoạn 2024-2025 và kế hoạch 2026-2030.
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở NN&MT TP Cần Thơ) cho biết, năm 2025, diện tích vùng thực hiện Đề án của thành phố là 104.500 ha. Trong giai đoạn đầu, thành phố đã triển khai thí điểm theo tiêu chí Đề án trên địa bàn với 12 mô hình tại các hợp tác xã, tổ hợp tác (HTX, THT) sản xuất lúa với nhiều kết quả khả quan. Trong đó, năng suất lúa tại mô hình đạt cao hơn 0,3-0,7 tấn/ha so với nông dân canh tác theo phương thức truyền thống. Tổng chi phí sản xuất ở mô hình giảm trung bình khoảng 1,1 triệu đồng/ha. Lợi nhuận mô hình điểm cao hơn đối chứng từ 1,3 - 6,5 triệu đồng/ha. Đặc biệt, mô hình giảm từ 2-12 tấn CO2/ha.
Ông Võ Văn Thạnh – Phó Giám đốc HTX Hưng Lợi (Xã Đại Ngãi, TP Cần Thơ) – cho biết, sau 2 năm thực hiện mô hình, từ năng suất đến thu nhập của bà con nông dân đều cải thiện đáng kể. Năng suất bình quân trong mô hình đạt 6,3-6,5 tấn/ha, giá bán 8.800-10.800 đồng/kg, thu nhập đạt 68-70,2 triệu đồng/ha. Lợi nhuận bình quân 47 triệu đồng/ha (tương đương 67% thu nhập), cao hơn từ 4-5 triệu đồng/ha đối với các ruộng bên ngoài mô hình thu hoạch cùng thời điểm, do giảm các chi phí đầu vào như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và tưới tiêu.
Theo kế hoạch, đến năm 2030, trên địa bàn TP Cần Thơ sẽ có gần 171.000 ha diện tích lúa tham gia Đề án. Trong giai đoạn 2026 – 2030, ngành nông nghiệp sẽ khảo sát vùng trồng, lên bản đồ thửa tại các vùng tham gia Đề án. Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu số tại từng HTX, nông dân để làm cơ sở triển khai các nội dung tiếp theo; Huy động các nguồn lực đầu tư nâng chất hạ tầng vùng thực hiện Đề án.
Đề án 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long sau 2 năm triển khai đã đem lại những kết quả tích cực. Đặc biệt, trong năm 2025, 500 tấn gạo Japonica mang nhãn hiệu "Gạo Việt xanh, phát thải thấp" lần đầu tiêu xuất khẩu đến thị trường Nhật Bản, tiếp tục khẳng định vị thế gạo Việt trong phân khúc thị trường cao cấp.
Một trong những khác biệt lớn nhất của nông nghiệp chính xác là chuyển trọng tâm từ sản lượng sang giá trị. Khi dữ liệu được số hóa xuyên suốt từ gieo trồng đến thu hoạch, chế biến và phân phối, nông sản không còn là sản phẩm "vô danh". Mỗi hạt gạo, mỗi bao lúa đều mang theo "hồ sơ số": giống gì, trồng ở đâu, sử dụng bao nhiêu nước, phân bón, phát thải bao nhiêu carbon.
Chính dữ liệu này cho phép nông sản tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nơi giá trị không chỉ đến từ sản phẩm vật chất, mà còn từ thông tin, tiêu chuẩn và uy tín. Đây là điều mà nông nghiệp Việt Nam lâu nay còn thiếu. Việt Nam là một quốc gia có nền nông nghiệp lâu đời, nhưng cũng đang đứng trước những thách thức lớn. Việc áp dụng nông nghiệp chính xác tương lai là nông nghiệp thông minh là con đường tất yếu để ngành nông nghiệp Việt Nam vươn tầm quốc tế. Chính phủ đã và đang có nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư vào công nghệ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn cần phải vượt qua như chi phí đầu tư ban đầu cao, thiếu nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ,...
Trao đổi với TS. Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, việc chuyển đổi từ nông nghiệp sản xuất theo phương thức truyền thống sang mô hình nông nghiệp xanh theo hướng sản xuất thông minh là một quá trình có lộ trình rõ ràng. Do đó yêu cầu cấp thiết đầu tiên đặt ra cho ngành nông nghiệp đó là có một cơ sở pháp lý hoàn thiện, bao gồm hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn đáp ứng yêu cầu của phương thức sản xuất thông minh. Song song với đó, nếu muốn ứng dụng được các phương thức sản xuất thông minh thì yêu cầu cấp thiết cần làm là phải xây dựng hoàn thiện được cơ sở hạ tầng và cơ sở dữ liệu đồng bộ cho ngành nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Môi trường hiện nay đang phấn đấu hoàn thành cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường trong năm 2025. Khi có đầy đủ dữ liệu, hạ tầng và hành lang pháp lý, chúng ta mới có thể chuyển giao các công nghệ hiện đại vào phục vụ sản xuất một cách hiệu quả.
Nông nghiệp chính xác nói riêng và nông nghiệp thông minh nói chung không chỉ là một xu hướng mà là con đường tất yếu để giải quyết các thách thức của ngành nông nghiệp toàn cầu. Đối với Việt Nam, đây là cơ hội vàng để chuyển mình, xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, nâng cao giá trị sản phẩm và cải thiện đời sống người dân. Nông nghiệp chính xác không còn là tương lai mà chính là hiện tại đang được kiến tạo để định hình một tương lai nông nghiệp thịnh vượng và an toàn hơn./.














Bình luận (0)