Ăn rau thủy sinh: Coi chừng bệnh sán lá ruột!

BS. Bùi Thị Thu Hương/Theo SKĐS, icon
09:11 ngày 03/02/2013

 Ở Việt Nam, bệnh sán lá ruột chủ yếu phát hiện ở lợn, người mắc bệnh hầu hết thuộc những vùng có nhiều hồ ao, cây thủy sinh làm thức ăn cho người và gia súc.

Sán lá ruột có tên khoa học là Fasciolopsiasis gây bệnh cho người, gặp nhiều ở vùng Đông Nam Á và châu Á (Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, Ấn Độ... Mùa mưa lũ, diện tích đồng ruộng bị ngập lụt tăng và các loại rau thủy sinh cũng tăng, nên nguy cơ người dân bị mắc bệnh sán lá ruột càng cao.

‘ Không ăn sống các loại rau thủy sinh như rau cần để tránh mắc bệnh sán lá ruột.

Loài sán Fasciolopsis buski (sán lá ruột) dài từ 30 - 70mm, chiều ngang từ 14 - 15mm.Trứng của sán lá ruột là loại trứng lớn trong các loại trứng giun sán, có màu sẫm. Một con sán lá ruột trưởng thành mỗi ngày có thể đẻ tới 2.500 trứng, trứng theo phân ra ngoài, phát triển trong nước ngọt, ao hồ, đồng ruộng. Khoảng 3 - 7 tuần, ấu trùng lông phát triển hoàn chỉnh trong trứng và thoát ra, di động, xâm nhập một số loài ốc và chuyển thành bào ấu. Trong con ốc, sau 4 - 7 tuần, bào ấu phát triển nở thành rất nhiều ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời vỏ ốc, sống bám vào một số cây mọc dưới nước như củ ấu, bắp niễng, ngó sen, ngó khoai, rau muống, rau cần, rau rút... phát triển thành nang trùng. Người và lợn ăn phải các loại cây thủy sinh có chứa các nang trùng này sẽ nhiễm bệnh. Trong cơ thể người hoặc lợn, nang trùng sẽ mất vỏ nang ở tá tràng vật chủ, bám vào ruột non để ký sinh và phát triển thành sán trưởng thành. Thời gian từ khi xâm nhập đến khi thành sán trưởng thành khoảng 3 tháng.

Bệnh biểu hiện qua 3 giai đoạn: Khởi phát với các triệu chứng mệt mỏi, giảm sút sức khỏe, thiếu máu. Toàn phát: người bệnh thấy đau bụng, thường đau âm ỉ ở vùng hạ vị, có thể có những cơn đau dữ dội, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy thất thường, kéo dài nhiều tuần, phân lỏng, không có máu, nhưng có nhầy lẫn thức ăn không tiêu, bụng bị trướng, nhất là ở trẻ em. Giai đoạn nặng: ở người bệnh bị nhiễm sán nhiều và không được điều trị, bệnh sẽ chuyển sang giai đoạn nặng với các triệu chứng: phù toàn thân, phù mặt, phù thành bụng, phù chân, tràn dịch ở tim, phổi, cổ trướng, bệnh nhân có thể tử vong do suy kiệt. Chẩn đoán sán lá ruột chủ yếu dựa vào các dấu hiệu: rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy kéo dài, phù nề, suy nhược, xét nghiệm phân theo phương pháp trực tiếp hoặc Kato phát hiện sán và trứng sán.

Để điều trị bệnh sán lá ruột, cần được bác sĩ chuyên khoa ký sinh trùng chỉ định dùng thuốc. Cần điều trị sớm, đủ liều và dùng thuốc đặc hiệu, kết hợp điều trị hỗ trợ để nâng cao thể trạng bệnh nhân. Thuốc có thể dùng là praziquantel, liều 25mg/kg/ngày, liên tục trong 3 ngày hoặc uống một liều duy nhất 40mg/kg sau khi ăn no.

Phòng bệnh: Cơ bản là diệt ốc, đây là vật chủ bắt buộc của sán lá ruột; thực hiện ăn chín, uống sôi; tuyên truyền người dân không ăn sống các loại rau thủy sinh như rau cần, rau muống, rau rút, rau ngổ... Quản lý phân, không bón trực tiếp phân chuồng, phân bắc vào các cây rau thủy sinh.

Cùng chuyên mục