Lãi suất, lạm phát và tỷ giá đang tác động ra sao đến thị trường?

P.V-Thứ năm, ngày 02/11/2023 11:10 GMT+7

VTV.vn - Đến thời điểm này, tình hình kinh tế thế giới đã có nhiều sự cải thiện hơn so với đầu năm.

Thay vì những dự đoán về suy thoái kinh tế, giới phân tích lại đang sử dụng cụm từ "hạ cánh mềm" nhiều hơn. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng dự báo lãi suất tại Mỹ dự kiến sẽ duy trì ở mức cao trong thời gian dài, đồng USD vẫn trong xu hướng tăng so với các đồng tiền khác, trong khi những lo ngại về lạm phát vẫn còn đó khi giá năng lượng hay thực phẩm có dấu hiệu tăng trở lại… khiến cho các nhà đầu tư lo lắng rằng, bộ ba áp lực lãi suất, tỷ giá và lạm phát trên thế giới sẽ làm ảnh hưởng đến nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán trong nước. 

Trao đổi trong Talk show Phố Tài Chính (The Finance Street Talk Show) trên VTV8, theo các chuyên gia, những yếu tố như lãi suất, tỷ giá hay lạm phát trên toàn cầu, tuy có sự ảnh hưởng nhất định, nhưng hiện kinh tế Việt Nam vẫn đang có những yếu tố thuận lợi, tạo điều kiện để nhà quản lý có thể thực hiện những chính sách giúp hỗ trợ cho nền kinh tế và thị trường chứng khoán.

Lãi suất, lạm phát và tỷ giá đang tác động ra sao đến thị trường? - Ảnh 1.

BTV Mùi Khánh Ly: Các ông cũng đã thấy tình hình nền kinh tế trong nước đang trên đà phục hồi tích cực. Trong đó, các ông đánh giá như thế nào về mức lãi suất, sự ổn định về tỷ giá và lạm phát ở Việt Nam?

TS. Vũ Đình Ánh, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính: Trong bối cảnh rất nhiều nước trên thế giới đã phải chịu đựng lạm phát cao và kéo dài trong suốt thời gian vừa qua, mức lạm phát của Việt Nam hiện nay được dự tính cho cả năm 2023 sẽ thấp hơn so với mục tiêu của chúng ta, có khả năng dưới 4% trong năm 2023. Vấn đề thứ hai là về lãi suất, đã 4 lần liên tiếp chúng ta giảm lãi suất điều hành trong năm 2023 và xác lập một mặt bằng lãi suất tương đối ổn định. Cũng trong cái bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới, họ đã phải duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt để đối phó với lạm phát. Như vậy chính sách lãi suất của Việt Nam cũng đã hỗ trợ cho kinh tế cũng như cho thị trường. 

Bên cạnh đó biến số về tỷ giá hối đoái của chúng ta cũng được xác lập cho đến hết tháng 9/2023 thì mức biến động chỉ hơn 2%, trong bối cảnh nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới, thậm chí đồng tiền nội tệ của họ mất giá lên tới hàng chục %, đây cũng là một ưu điểm của chúng ta. Điểm thứ tư nữa, các cân đối lớn của nền kinh tế Việt Nam cũng đang rất tích cực trong 9 tháng của năm 2023 và dự tính cho cả năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa thặng dư tới trên 20 tỷ USD. Đây là một mức kỷ lục và nhờ thặng dư cán cân thương mại này cộng với việc tiếp tục thu hút được dòng vốn FDI thì chúng ta có cán cân thanh toán tổng thể hiện nay đã ở mức dương hơn 3 tỷ USD. Ngoài ra, chúng ta cũng đã có những biện pháp để khắc phục những suy giảm của thị trường tài chính, đặc biệt đối với một số các sản phẩm về trái phiếu doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Triệu Vinh, CFA, Phó Giám đốc đầu tư Công ty QLQ Vietcombank (VCBF): Nói về lãi suất, tỷ giá và lạm phát thì trước hết chúng ta cần biết là ba yếu tố này có sự tác động qua lại lẫn nhau, mặc dù đôi khi có độ trễ nhất định. Ở Việt Nam, đối với lãi suất, vừa qua 4 ngân hàng quốc doanh lớn đã đưa mức lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng cho khách hàng cá nhân về mức 5,3%, đây là mức thấp nhất trong nhiều năm. Lãi suất cho vay cũng đã giảm đáng kể. 

Theo quan sát của chúng tôi, một số ngân hàng đang cho vay mua nhà với mức lãi suất cố định trong 1 - 2 năm đầu khoảng 8,5%, lãi suất cho vay vốn lưu động ở mức khoảng 5%. Đây là yếu tố rất tích cực cho tiêu dùng và đầu tư ở Việt Nam trong thời gian tới. Môi trường lãi suất thấp sẽ gây áp lực lên lạm phát. Nhưng theo tôi quan sát thì đây chưa phải là điều đáng lo, ít nhất là trong vài quý tới, vì tổng cầu trong nước còn kém. Chúng ta có thể thấy điều này qua mức tăng trưởng GDP khá khiêm tốn trong quý 3 vừa qua. Tăng trưởng tín dụng cũng đang ở mức thấp mặc dù có cải thiện trong 1 - 2 tháng gần đây. Về tỷ giá thì chúng ta thấy áp lực lên tiền đồng đã gia tăng đáng kể trong các tháng gần đây. Đây cũng là điều dễ hiểu vì trong khi Việt Nam đang duy trì lãi suất thấp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì Mỹ lại đang tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để kìm hãm lạm phát. 

Bên cạnh đó, tỷ giá cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tương quan cung cầu đồng nội tệ và ngoại tệ. Do đó, để hỗ trợ đồng nội tệ và tránh tình trạng đầu cơ, trong khoảng 2 tuần, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành tín phiếu kỳ hạn ngắn với tổng giá trị 185.700 tỷ đồng tính đến ngày 12/10/2023 để giảm lượng VND dư thừa trong hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, tôi cho rằng tỷ giá cũng sẽ được hỗ trợ tích cực từ thặng dư thương mại gần 22 tỷ USD và giải ngân vốn đầu tư nước ngoài gần 16 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm.

BTV Mùi Khánh Ly: Thực tế các yếu tố này trên thế giới cũng đã có sự cải thiện, tuy nhiên chưa đạt đến mức mục tiêu đề ra. Trước tiên là về lãi suất thì đối với nền kinh tế đầu tàu thế giới là Mỹ, mức lãi suất đã tăng cao lịch sử, đến nay tuy có phần chững lại đà tăng nhưng dự báo mức lãi suất cao còn kéo dài một thời gian dài nữa, theo các ông thì sao?

Lãi suất, lạm phát và tỷ giá đang tác động ra sao đến thị trường? - Ảnh 2.

Ông Nguyễn Triệu Vinh, CFA, Phó Giám đốc đầu tư Công ty QLQ Vietcombank (VCBF): Tôi cho rằng FED sẽ sớm kết thúc chương trình tăng lãi suất. Theo dự phóng hiện nay thì tổ chức này sẽ tăng lãi suất thêm một lần nữa vào tháng 11 nhưng gần đây cũng có nhiều nhận định cho rằng FED không cần thiết phải tăng lãi suất thêm nữa. Nhưng một điều khá chắc chắn là tổ chức này sẽ duy trì mặt bằng lãi suất cao cho đến khi họ kiểm soát lạm phát thành công. 

Mặc dù lạm phát bên Mỹ đã hạ nhiệt đáng kể trong thời gian vừa qua, nhưng chỉ số lạm phát lõi trong tháng 9 vẫn ở mức tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức kỳ vọng trong dài hạn là 2,0%. Trong báo cáo gần nhất, FED đã nâng mức dự phóng lãi suất lên so với trước đây cho năm 2024 (5,1% so với 4,6%) và năm 2025 (3,9% so với 3,4%). Với triển vọng lãi suất như vậy, áp lực lên đồng nội tệ và xuất khẩu sẽ duy trì trong thời gian tới.

TS. Vũ Đình Ánh, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính: Cũng đúng như anh Vinh đã nói và tôi hoàn toàn chia sẻ vì độ mở của nền kinh tế Việt Nam quá lớn. Việt Nam chúng ta hiện nay đang được đánh giá là nước có độ mở kinh tế lớn nhất với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới xấp xỉ 200% GDP, cộng với việc chúng ta có đến 18 Hiệp định thương mại tự do FTA cũng thuộc kỷ lục trên thế giới và dự kiến còn tiếp tục ký những hiệp định mới nữa. 

Như vậy, với mỗi một biến động trên thế giới, hay những quốc gia là những bạn hàng lớn nhất của chúng ta trong cả xuất khẩu cũng như trong nhập khẩu thì sẽ tác động đến Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay các chính sách của từng quốc gia là không đồng đều và thậm chí là những dự báo cũng khá ngược chiều. Tôi ví dụ như đối với trường hợp của Mỹ thì suốt từ cuối năm 2022 cho đến năm 2023, dự báo chi phối đó là kinh tế Mỹ sẽ suy thoái thì sang đến quý 4/2023, các dấu hiệu cho khả năng suy thoái của kinh tế Mỹ lại được giảm đi rất nhiều. Hay một bạn hàng rất lớn của Việt Nam như Trung Quốc thì họ lại áp dụng vào chính sách tiền tệ nới lỏng, đặc biệt để đối phó với vấn đề về khủng hoảng nợ trên thị trường bất động sản cũng như hàng loạt những vấn đề liên quan đến bất động sản vốn vào khoảng 1/4 GDP của Trung Quốc. Ngay cả Nhật Bản họ cũng đang duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, hạ lãi suất, có thể nói ở mức rất là thấp. Như vậy, việc điều hành chính sách đó sẽ tác động đến Việt Nam chúng ta nhiều chiều khác nhau chứ không phải một cách đồng nhất.

BTV Mùi Khánh Ly: Chính việc lãi suất cao đã khiến cho đồng USD tăng giá so với các đồng tiền khác, theo hai ông, điều này có ảnh hưởng như thế nào đến thị trường Việt Nam?

Ông Nguyễn Triệu Vinh, CFA, Phó Giám đốc đầu tư Công ty QLQ Vietcombank (VCBF): Khi đồng USD tăng giá, mà chủ yếu là do FED duy trì quan điểm giữ lãi suất ở mức cao trong thời gian dài hơn để kìm hãm lạm phát ở Mỹ, thì áp lực lên VND sẽ là đáng kể trong thời gian tới. Nhưng như tôi đã phân tích ở trên, tôi tin rằng Ngân hàng Nhà nước có đủ công cụ và nguồn lực để ổn định tỷ giá và để cân đối hai mục tiêu tỷ giá và lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng. Bên cạnh đó, chúng ta cần ghi nhận là mặc dù đồng VND mất giá khoảng 3,5% từ đầu năm, nhưng mức này thấp hơn khá nhiều so với mức mất giá của các đồng nội tệ khác ở châu Á như Baht Thái (giảm khoảng 5,1%), Nhân Dân Tệ (giảm khoảng 5,3%), Ringgit của Malaysia (giảm khoảng 6,6%) và Yên Nhật (giảm khoảng 12,7%).

TS. Vũ Đình Ánh, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính: Chúng ta còn nhớ hai lần tăng lãi suất vào tháng 9 và tháng 10/2022, mỗi một lần tăng 1% và một lý do tại thời điểm quý 3/2022 chúng ta đã có thâm hụt cán cân thanh toán và nó tạo ra một áp lực cực lớn lên điều chỉnh lãi suất và điều chỉnh tỷ giá hối đoái của chúng ta tại thời điểm đó. Tuy nhiên sang đến cuối quý 2/2023 vừa qua và kéo dài sang cả quý 3, cán cân thanh toán của chúng ta đã đảo chiều, hiện nay theo thông báo gần nhất thì đang dương khoảng 3,04 tỷ USD và như vậy áp lực lên điều chỉnh lãi suất hay điều chỉnh tỷ giá hối đoái do vấn đề về luân chuyển dòng vốn sẽ giảm đi rất nhiều và thậm chí theo chiều hướng tích cực thì tôi cho đây là những yếu tố mà các nhà đầu tư cũng cần đặc biệt quan tâm.

BTV Mùi Khánh Ly: Một mối lo khác nữa của nhà đầu tư là mức lạm phát trên thế giới tuy đã giảm hoặc chững lại đà tăng, nhưng gần đây lại có dấu hiệu tăng trở lại như giá năng lượng, giá lương thực… tăng? Các ông đánh giá như thế nào về điều này?

Lãi suất, lạm phát và tỷ giá đang tác động ra sao đến thị trường? - Ảnh 3.

TS. Vũ Đình Ánh, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính: Về lạm phát tại các thị trường lớn như Mỹ chẳng hạn thì lạm phát của họ được dự báo sẽ tiếp tục kiểm soát tốt hơn. Tuy nhiên, để quay trở về mức mục tiêu của họ 2% thì chắc chắn là họ còn cần khá nhiều thời gian, đặc biệt trong bối cảnh giá năng lượng hay giá lương thực còn nhiều biến số mà chúng ta cần phải quan tâm. Một khu vực nữa đó chính là khu vực châu Âu, hiện nay đang đối mặt với vấn nạn kép, cả về tăng trưởng kinh tế đang tăng trưởng rất chậm. Những đầu tàu kinh tế như Đức thậm chí gần như không tăng trưởng và vừa rồi 3 quý liên tiếp rơi vào tăng trưởng âm. Trong khi đó lạm phát của họ vẫn dự báo ở mức khoảng tầm 3 - 5% trong một vài năm tới. Như vậy, chúng ta đã thấy lạm phát có tính phân mảnh trên toàn cầu. Trong khi đó ở những nước, ví dụ nền kinh tế thứ hai thế giới như Trung Quốc thì người ta lại còn không quan sát tới lạm phát, thậm chí còn có cả hiện tượng giảm phát.

Ông Nguyễn Triệu Vinh, CFA, Phó Giám đốc đầu tư Công ty QLQ Vietcombank (VCBF): Các yếu tố chi phí đẩy xuất hiện khá nhiều trong thời gian gần đây. Ví dụ, giá dầu Brent đã tăng 27,2% trong quý 3, chủ yếu do nguồn cung thắt chặt khi các nhà sản xuất lớn bao gồm Arab Saudi và Nga gia hạn cắt giảm nguồn cung và do căng thẳng địa chính trị. Một số sản phẩm nông nghiệp như đường và gạo cũng tăng giá đáng kể do hiện tượng thời tiết El Nino đe dọa nguồn cung và vì một số nước trong đó có Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu. Tuy vậy do nguồn cung gạo của Việt Nam rất dồi dào, chúng ta là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới và giá dầu chúng tôi đánh giá cũng khó có thể cao hơn nhiều nữa do nhu cầu toàn cầu vẫn còn yếu nên áp lực là có nhưng sẽ không tăng trong thời gian tới.

BTV Mùi Khánh Ly: Sau những phân tích ở trên thì các yếu tố này sẽ tác động như thế nào đến nền kinh tế và thị trường chứng khoán của Việt Nam, theo hai ông?

TS. Vũ Đình Ánh, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính: Nếu nói một cách ngắn gọn thì tôi cho rằng, với giả định rằng thế giới không có biến động gì quá lớn trong những tháng tới, đặc biệt là quý 4 chúng ta sẽ tiếp tục xu thế là quý sau cải thiện hơn quý trước và như vậy tình hình sẽ lạc quan hơn. Thị trường chứng khoán theo đó cuối năm 2023 sẽ tiếp tục có những diễn biến theo xu hướng tích cực cùng với xu hướng của kinh tế tăng trưởng, đặc biệt là sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung đang được hỗ trợ rất tích cực bởi những sự quan tâm ngày càng gia tăng. 

Tôi được biết có sự quan tâm từ các nhà đầu tư ở châu Âu cũng như Bắc Mỹ đối với thị trường Việt Nam, bên cạnh sự quan tâm vốn của các nhà đầu tư như Hàn Quốc hay Nhật Bản vốn đã có ở thị trường Việt Nam. Về dự báo thì gần như tất cả các dự báo của các tổ chức quốc tế cũng như các tổ chức và cá nhân có uy tín ở trong nước đều đánh giá rằng năm 2024, chúng ta sẽ tốt hơn so với năm 2023 và như vậy kỳ vọng thị trường chứng khoán năm 2024 cũng sẽ tốt hơn.

Ông Nguyễn Triệu Vinh, CFA, Phó Giám đốc đầu tư Công ty QLQ Vietcombank (VCBF): Tôi cho rằng với điều kiện vĩ mô hiện nay, kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục hồi phục trong thời gian tới. Với mức tăng trưởng GDP đáng khích lệ nhưng còn khá thấp trong quý 3, nhiều khả năng Chính phủ sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng. Về mặt tài khoá, giải ngân đầu tư công đã hoàn thành 51,3% mục tiêu Chính phủ tính đến cuối tháng 9, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử tỷ lệ giải ngân đạt hơn 50% trong 9 tháng. Và giải ngân đầu tư công dự kiến sẽ tăng tốc hơn nữa trong quý cuối cùng của năm nay. 

Một động lực tăng trưởng kinh tế khác trong năm nay, ngành du lịch, đã phục hồi nhanh chóng với lượng khách quốc tế trong 9 tháng đã vượt mục tiêu cả năm và đạt 69,0% so với cùng kỳ trước COVID-19 và có triển vọng tích cực nhờ những nỗ lực của Chính phủ và các công ty lữ hành như cấp thị thực điện tử và gia hạn thời gian lưu trú để tăng lượng khách quốc tế, đặc biệt trong mùa cao điểm sắp tới. Nhưng kinh tế Việt Nam cũng còn phải đối diện với nhiều thách thức đặc biệt là triển vọng kém khả quan của tổng cầu trên thế giới. 

Ở Mỹ, là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, tình hình khá kém khả quan do chính sách tiền tệ thắt chặt như tôi đã nói trên. Tương tự tại châu Âu, thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, Ngân hàng Trung ương châu Âu vừa tăng lãi suất trong tháng 9 do áp lực lạm phát còn cao mặc dù đã hạ nhiệt. Trung Quốc, thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, cũng đang phải đối phó với tình trạng tăng trưởng kinh tế ảm đạm.

BTV Mùi Khánh Ly: Vậy nhà đầu tư nên làm gì vào lúc này?

TS. Vũ Đình Ánh, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả, Bộ Tài chính: Tôi cho rằng đối với các nhà đầu tư thì điều họ cần hơn bao giờ hết chính là sự bình tĩnh. Tôi đơn cử trong tháng 9 và những ngày của tháng 10, thị trường nhiều phiên lao sâu và thanh khoản rất kém, mặc dù không có yếu tố gây đến mức tiêu cực như vậy. Điểm thứ hai, đối với các nhà đầu tư, bên cạnh các mối quan tâm về các nhóm cổ phiếu trước khi đưa ra các quyết định lựa chọn thì họ cũng cần quan tâm hơn nhiều tới các yếu tố vĩ mô, kể cả vĩ mô quốc tế cũng như trong nước. Bởi vì như một lần nữa chúng ta khẳng định độ mở của nền kinh tế Việt Nam cũng như khả năng dẫn dắt và chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường cũng là một yếu tố rất quan trọng.

Ông Nguyễn Triệu Vinh, CFA, Phó Giám đốc đầu tư Công ty QLQ Vietcombank (VCBF): Đối với thị trường chứng khoán, với mức điều chỉnh khoảng 9,2% kể từ ngày 08/08/2023, định giá thị trường đã trở nên hấp dẫn hơn với mức P/E trượt của VNIndex là khoảng 14,4 lần. Và do thu nhập doanh nghiệp được dự báo sẽ cải thiện trong nửa cuối năm 2023 và năm 2024 khi kinh tế hồi phục, định giá của thị trường chứng khoán dựa vào lợi nhuận năm 2024 còn hấp dẫn hơn với mức P/E 10,8 lần, thấp hơn nhiều so với mức P/E bình quân trung vị của chỉ số trong 15 năm qua là 14,5 lần. 

Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi vẫn ở mức thấp và điều đó có lợi cho nhu cầu đầu tư vào các loại tài sản rủi ro bao gồm cổ phiếu. Nói như vậy nhưng tôi cho rằng việc lựa chọn cổ phiếu luôn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự thành công trong đầu tư. Đối với chúng tôi thì chúng tôi yêu thích các công ty mà có thể duy trì đà tăng trưởng doanh thu lợi nhuận ngay cả trong điều kiện kinh tế gặp nhiều thách thức như một số công ty trong ngành công nghệ thông tin, dịch vụ tiện ích và dược phẩm. Một số cổ phiếu ngân hàng cũng có định giá hấp dẫn đặc biệt là khi rủi ro suy giảm chất lượng tài sản đã giảm trong bối cảnh kinh tế vĩ mô diễn biến tích cực hơn và lãi suất giảm. Cũng vì lý do này, tôi cho rằng cổ phiếu ngành hàng tiêu dùng cũng là sự lựa chọn phù hợp. 

Nhìn chung, tôi cho rằng đây là thời điểm tốt để các nhà đầu tư phân bổ một phần tài sản của mình vào cổ phiếu và đầu tư với tầm nhìn trung và dài hạn. Nhưng nhà đầu tư cần nghiên cứu kỹ các công ty trước khi ra quyết định đầu tư và nếu không có đủ thời gian hoặc chưa tích lũy đủ kiến thức phân tích đầu tư thì có thể đầu tư thông qua các quỹ mở được quản lý bởi các đội ngũ đầu tư chuyên nghiệp.

BTV Mùi Khánh Ly: Xin cảm ơn hai ông về những thông tin vừa rồi!

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV OnlineVTVGo!

Cùng chuyên mục

TIN MỚI

    X

    ĐANG PHÁT

    Bản tin thời tiết chào buổi sáng 3 phút trước