Gốm Quảng Đức - Dấu ấn độc bản từ đất, lửa và sò huyết.
Dọc theo bờ Sông Cái ở Tuy An Bắc (Phú Yên cũ), nơi ba nhánh sông Nhân Mỹ, Ngân Sơn và Hà Yến hợp lưu trước khi đổ ra vịnh Xuân Đài, câu chuyện về di sản gốm Quảng Đức vẫn được kể mãi - những ký ức về những lò nung một thời rực lửa.
Dấu ấn độc bản từ đất, lửa và sò huyết
Hơn ba thế kỷ trước, theo dấu chân thợ gốm họ Nguyễn từ Gò Sành (Bình Định cũ), một dòng gốm mới đã ra đời ở vùng đất này, mộc mạc mà tinh tế, mang trong mình tinh hoa của văn hóa Chăm - Việt giao hòa.
Khác với nhiều dòng gốm khác, gốm Quảng Đức nổi tiếng bởi kỹ thuật nung hiếm gặp và sắc men đặc trưng. Nguyên liệu chính là đất sét An Định, được trộn cùng sò huyết tươi từ đầm Ô Loan, loại vật liệu tự nhiên tạo nên hiện tượng “hỏa biến” kỳ diệu trong lò nung. Suốt ba ngày ba đêm đốt liên tục bằng củi Mằng lăng, nhiệt độ cao khiến vỏ sò tan chảy, hòa vào men, tạo nên sắc màu biến ảo từ xanh ngọc, da lươn, huyết dụ đến hồng lửa. Mỗi sản phẩm gốm là một độc bản - kết tinh từ đất, lửa và bàn tay nghệ nhân.
Mỗi sản phẩm gốm là một độc bản - kết tinh từ đất, lửa và bàn tay nghệ nhân.
Từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, sản phẩm gốm Quảng Đức đã theo thuyền ngược sông Cái lên Tây Nguyên, xuôi về Nam Bộ, và thậm chí sang tận Pháp. Dấu khắc “1934 - Village Quang Duc” trên một chiếc chậu cổ còn lưu giữ đến nay là minh chứng cho thời kỳ phồn thịnh, khi cả làng quanh năm đỏ lửa, bến sông tấp nập thuyền bè giao thương.
Dấu khắc “1934 - Village Quang Duc” trên một chiếc chậu cổ còn lưu giữ đến nay là minh chứng cho thời kỳ phồn thịnh, khi cả làng quanh năm đỏ lửa, bến sông tấp nập thuyền bè giao thương.
Ký ức làng nghề
Trở về làng Quảng Đức hôm nay, tên “Lò Gốm” vẫn còn vẹn nguyên trên chiếc cầu nhỏ bắc qua sông Cái, nhưng nghề xưa gần như đã tắt. Nghệ nhân Nguyễn Văn Ngân, người cuối cùng giữ nghề vẫn kiên trì bên lò nung, song bí quyết làm men sò huyết đã thất truyền. Đất sét không còn như xưa, sò huyết tươi khó kiếm, củi Mằng Lăng - “linh hồn của ngọn lửa” cũng chỉ còn trong ký ức.
Trở về làng Quảng Đức hôm nay, tên “Lò Gốm” vẫn còn vẹn nguyên, nhưng nghề xưa gần như đã tắt.
Tuy vậy, giá trị của gốm Quảng Đức vẫn sống mãi trong lòng những người yêu văn hóa vùng đất này. Giữa vùng quê ven sông An Thạch, Không gian văn hóa Quảng Đức xưa trở thành điểm đến độc đáo trên hành trình du lịch Đắk Lắk.
Không gian văn hóa Quảng Đức xưa trở thành điểm đến độc đáo trên hành trình du lịch Đắk Lắk.
Bước qua cổng gỗ nhuốm màu thời gian, du khách như lạc vào một làng nghề xưa được tái hiện chân thực. Những ngôi nhà gỗ ba gian, mái ngói âm dương, sân gạch cũ kỹ và hàng trăm hiện vật gốm cổ được bài trí tinh tế: từ bình vôi, chóe, nậm rượu đến những chậu cảnh mộc mạc, tất cả đều kể câu chuyện về nghề gốm, về bàn tay và hơi thở của con người Tuy An Bắc.
Hiện vật gốm cổ: từ bình vôi, chóe, nậm rượu đến những chậu cảnh mộc mạc, tất cả đều kể câu chuyện về nghề gốm, về bàn tay và hơi thở của con người Phú Yên xưa.
Không gian này không chỉ trưng bày mà còn tạo cơ hội cho du khách trải nghiệm văn hóa, thưởng trà, nghe thuyết minh song ngữ về kỹ thuật men sò huyết và lịch sử làng nghề, lan tỏa mạnh mẽ ra cộng đồng quốc tế, trở thành một cầu nối di sản sống động giữa quá khứ và hiện tại.
Thắp lại ngọn lửa di sản
Gốm Quảng Đức, với câu chuyện riêng biệt, sắc men độc bản và giá trị lịch sử sâu dày hoàn toàn có thể trở thành “điểm nhấn văn hóa” trong hành trình “Về miền di sản Đắk Lắk”, kết nối cùng gành Đá Đĩa, nhà thờ Mằng Lăng, đầm Ô Loan, Hòn Yến…
Từ không gian Quảng Đức xưa, câu chuyện làng nghề trăm năm đang được kể lại, được hiểu, được yêu và lan tỏa.
Giữa thời hiện đại, khi con người ngày càng tìm về với giá trị gốc, gốm Quảng Đức trở thành chứng nhân của văn hóa và ký ức. Những mảng men hỏa biến, vết sò tan chảy, màu đất nung thô ráp… là minh chứng cho bàn tay tài hoa và tâm hồn mộc mạc của người dân ven dòng sông Cái.
Không chỉ là bảo tồn một nghề đã mất, mà là đánh thức ký ức văn hóa, khơi dậy niềm tự hào và mở hướng phát triển du lịch gắn với di sản.
Từ không gian Quảng Đức xưa, câu chuyện về một làng nghề trăm năm đang được kể lại, được hiểu, được yêu và lan tỏa. Đó không chỉ là bảo tồn một nghề đã mất, mà là đánh thức ký ức văn hóa, khơi dậy niềm tự hào và mở hướng phát triển du lịch gắn với di sản.
Bình luận (0)