Tác động của kênh trái phiếu doanh nghiệp đến lãi suất tiền gửi
* Tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát hành từ đầu năm đến nay ước tính ở mức 159 nghìn tỷ đồng, tăng 50% so với 6 tháng đầu năm 2019.
* Tính từ đầu năm 2020 đến nay, NĐT cá nhân đã mua trực tiếp gần 22,7 nghìn tỷ đồng TPDN trên sơ cấp – tương đương 15% tổng lượng phát hành, cao hơn mức trung bình gần 10% của năm 2019.
* TPDN đang hút một lượng tiền đáng kể từ các kênh đầu tư khác trong đó trực tiếp nhất là kênh tiền gửi: So với lãi suất tiền gửi, lợi tức TPDN cao hơn từ 0.8-1.7%/năm so với lãi suất tiền gửi cạnh tranh nhất.
* Nếu loại trừ số TPDN mà các ngân hàng đang nắm giữ tại 31/3/2020, lượng trái phiếu doanh nghiệp do các tổ chức phi tín dụng, cá nhân nắm giữ là khoảng 385 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 4.2% tổng tiền gửi toàn hệ thống và gần bằng quy mô tiền gửi của Sacombank – ngân hàng có thị phần huy động xếp ngay sau Vietinbank.
* Hiện tại, chưa có 1 đơn vị trung gian độc lập định hạng các trái phiếu doanh nghiệp, việc tự đánh giá các trái phiếu vượt quá khả năng của các nhà đầu tư (NĐT) cá nhân. Sự gia tăng mạnh lượng phát hành TPDN thời gian gần đây có thể là bước tăng tốc trước khi dự thảo sửa đổi Nghị định 163 theo hướng siết chặt việc phát hành riêng lẻ TPDN đi vào hiện thực.
Quy mô thị trường TPDN sơ cấp và thứ cấp đều tăng trưởng mạnh mẽ trong nửa đầu 2020
Theo dữ liệu công bố của các doanh nghiệp và HNX, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát hành từ đầu năm đến nay ước tính ở mức 159 nghìn tỷ đồng, tăng 50% so với 6 tháng đầu năm 2019. Con số tăng trưởng quy mô phát hành 6M2020 so với cùng kỳ có thể sẽ còn cao hơn do các thông tin phát hành vẫn đang được công bố. Tổng lượng TPDN lưu hành ước khoảng 783 nghìn tỷ đồng, tương đương 12.8% GDP lũy kế 12 tháng gần nhất. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng bình quân 45%/năm giai đoạn từ 2017 đến 6M2020.
Không chỉ tăng trưởng mạnh mẽ trên thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp TPDN cũng sôi động hơn rất nhiều:
- Lượng TPDN niêm yết trên HSX đã tăng từ 14.2 nghìn tỷ đồng (2017) lên gần 36 nghìn tỷ đồng (30/6/2020), tương ứng tỷ lệ tăng trưởng bình quân 45%/năm; thanh khoản thị trường đang cải thiện với giá trị giao dịch tăng trung bình 80%/năm từ 2017 đến nay nhưng hiện vẫn ở mức khá khiêm tốn, bình quân khoảng 3.200 tỷ/tháng.
- Giao dịch qua các đại lý (CTCK, Ngân hàng) vẫn chiếm đa số. Không chỉ làm trung gian phân phối, các quỹ đầu tư trái phiếu doanh nghiệp gia tăng đáng kể số mở mới và cả tài sản quản lý (TCBF, VTBF, BVBF, VNFVFB, VCBF-FIF…)
NĐT cá nhân có thể tiếp cận TPDN dễ dàng hơn thông qua các quầy giao dịch của các Ngân hàng/CTCK, đặt lệnh mua TPDN qua tài khoản chứng khoán, thậm chí chức năng này còn được tích hợp vào tài khoản ngân hàng điện tử tại một số ngân hàng. Các lô trái phiếu có thể tách nhỏ đến từng triệu đồng để phù hợp với nhu cầu đầu tư của khách hàng, thời hạn đầu tư cũng rất linh hoạt nhờ trung gian thu xếp giao dịch hoặc cam kết mua lại từ các đại lý.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ về mặt quy mô, tính thanh khoản và khả năng tiếp cận đã khiến TPDN từ chỗ là kênh đầu tư dành riêng cho tổ chức đã dần trở thành một lựa chọn đầu tư mới cho khách hàng cá nhân.
NĐT cá nhân đang tham gia tích cực hơn
Tại báo cáo thường niên của TCBS, công ty chiếm 82.4% thị phần giao dịch TPDN trên HSX, cho biết đã phân phối bán lẻ ra thị trường cho nhà đầu tư cá nhân hơn 30 nghìn tỷ đồng trong năm 2019, tăng 47% so với 2018. Chúng tôi ước tính lượng TPDN NĐT cá nhân mua vào năm 2019 trên cả thứ cấp và sơ cấp khoảng 66 nghìn tỷ đồng, tương đương 1.4% tổng lượng tiền gửi dân cư vào hệ thống ngân hàng.
Dù nhỏ bé nhưng mức độ tham gia của NĐT cá nhân vào thị trường TPDN đang tăng khá nhanh. Tính từ đầu năm 2020 đến nay, NĐT cá nhân đã mua trực tiếp gần 22.7 nghìn tỷ đồng TPDN trên sơ cấp – tương đương 15% tổng lượng phát hành, cao hơn mức trung bình gần 10% của năm 2019. Các doanh nghiệp phát hành nhiều trong nửa đầu 2020 như Sovico, Vinfast, Vincommerce, Masan Group… đang được phân phối mạnh cho các khách hàng cá nhân trên thứ cấp.
TPDN gia tăng cạnh tranh với kênh tiền gửi
Tổng quy mô thị trường TPDN hiện tại tương đương khoảng 8,6% tổng tiền gửi toàn hệ thống ngân hàng- xấp xỉ quy mô tiền gửi của Vietinbank – ngân hàng có thị phần tiền gửi thứ 4 tại Việt Nam (sau BID, Agribank và Vietcombank), tương đương 9,3% dư nợ tín dụng và 19,5% tổng vốn hóa 3 sàn chứng khoán Việt Nam.
Theo báo cáo tài chính của các NHTM, số TPDN mà các ngân hàng đang nắm giữ tại 31/3/2020 là khoảng 398 nghìn tỷ đồng. Nếu loại trừ số này, lượng trái phiếu doanh nghiệp do các tổ chức phi tín dụng, cá nhân nắm giữ là khoảng 385 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 4.2% tổng tiền gửi toàn hệ thống và gần bằng quy mô tiền gửi của Sacombank – ngân hàng có thị phần huy động xếp ngay sau Vietinbank.
Nhìn lại, lượng TPDN các tổ chức phi tín dụng và cá nhân nắm giữ đã tăng khoảng 153% trong năm 2019 và tăng khoảng 25% trong 6 tháng đầu năm 2020. Rõ ràng TPDN đang hút một lượng tiền đáng kể từ các kênh đầu tư khác trong đó trực tiếp nhất là kênh tiền gửi do có cùng tính chất là các khoản đầu tư có thu nhập cố định.
Sức hấp dẫn của lợi suất trái phiếu doanh nghiệp so với tiền gửi
Trong 6 tháng đầu năm, các NHTM phát hành 42,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu với lãi suất bình quân 6.72%/năm và kỳ hạn bình quân 4.7 năm nhưng NĐT cá nhân chỉ mua các trái phiếu kỳ hạn 7 năm của TPB với lãi suất thả nổi, cao hơn lãi suất tiền gửi 2 - 2,6%/năm; và các trái phiếu 6-10 năm của BIDV có kèm cam kết mua lại trước hạn sau 1 - 5 năm ở lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi 0,6 - 1,2%/năm.
Nếu loại trừ trái phiếu ngân hàng, lãi suất bình quân TPDN phát hành sơ cấp dao động từ 10.1% đến 11.2%/năm với kỳ hạn tăng dần từ 12 tháng đến 5 năm. Khảo sát mức lãi suất các CTCK và NHTM chào, lãi suất TPDN trên thứ cấp thường thấp hơn từ 2 - 2,5%/năm trên sơ cấp; nằm trong vùng từ 7.5%-10.5%/năm.
So với lãi suất tiền gửi, lợi tức TPDN cao hơn từ 0,8 - 1,7%/năm so với lãi suất tiền gửi cạnh tranh nhất. Bản thân mức giãn cách của lãi suất tiền gửi giữa các nhóm NHTM cũng rất rộng, các NHTM nhỏ huy động với lãi suất cao hơn nhóm 4 NHTM nhà nước từ 1% - 2%/năm. Bởi vậy, nếu so với lãi suất tiền gửi của các NHTM lớn, lợi tức TPDN có thể cao hơn từ 1,8% - 4%/năm tùy từng kỳ hạn.
Yếu tố về kỳ hạn cũng được giải quyết với các cam kết từ phía các NHTM/CTCK sẽ mua lại hoặc làm trung gian thu xếp khi NĐT có nhu cầu thoái vốn. Các kỳ hạn nắm giữ có thể chia nhỏ đến từng tháng với mức lãi suất ghi trên hợp đồng cao hơn lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn từ 1% - 3%/năm.
Các nhà đầu tư cá nhân cần có cái nhìn cẩn trọng hơn với trái phiếu doanh nghiệp
Mức lãi suất cao hơn hẳn tiền gửi có sức hấp dẫn mạnh với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, lợi nhuận thường đi kèm với rủi ro, sở hữu trái phiếu đồng nghĩa với việc NĐT trở thành chủ nợ của tổ chức phát hành và sẽ đối mặt với các rủi ro về mất khả năng thanh toán/ thanh khoản của doanh nghiệp. Hiện tại, chưa có 1 đơn vị trung gian độc lập định hạng các trái phiếu doanh nghiệp, việc tự đánh giá các trái phiếu vượt quá khả năng của các NĐT cá nhân.
Bởi vậy, NĐT cần tìm hiểu kỹ về năng lực của tổ chức trung gian phân phối trong việc thực hiện cam kết mua lại trước hạn trái phiếu và mức phí phải chịu. Trong nhiều trường hợp, mức phí bán lại trái phiếu trước hạn có thể ăn mòn hết phần chênh lệch với lãi suất tiền gửi.
Mới đây, các NHTM đồng loạt giảm mạnh lãi suất tiền gửi từ 10-90bps tùy từng kỳ hạn kể từ 01/7/2020, ghi nhận đợt giảm lãi suất mạnh nhất từ cuối năm 2019 đến nay. Vùng lãi suất này đã thấp hơn 0,75% - 1%/năm ở kỳ hạn dưới 6 tháng và thấp hơn từ 1% - 2%/năm ở các kỳ hạn 6 tháng trở lên so với thời điểm cuối năm 2019 và nới rộng chênh lệch so với lãi suất TPDN.
Sự gia tăng mạnh lượng phát hành TPDN thời gian gần đây có thể là bước tăng tốc trước khi dự thảo sửa đổi Nghị định 163 theo hướng siết chặt việc phát hành riêng lẻ TPDN đi vào hiện thực. Sau 2 năm tăng tốc, lượng TPDN lưu hành hiện đã tương đối lớn và có thể là một trong những yếu tố khiến lãi suất tiền gửi khó có thể giảm nhiều trong nửa cuối năm 2020.
* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online!