Các chuyên gia tại buổi tọa đàm "Không gian công cộng - Từ biểu tượng đô thị đến động lực tăng trưởng kinh tế" do Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh (VTV9) tổ chức.
Hạ tầng mềm, lợi ích cứng
Trong cuộc đua giữa các đô thị lớn, điều tạo khác biệt ngày càng ít nằm ở những khẩu hiệu "thành phố thông minh" hay vài công trình biểu tượng, mà nằm ở trải nghiệm sống thường nhật: đi lại có thuận tiện không, có chỗ gặp gỡ không, có không gian mở để hít thở và sáng tạo không. Nói cách khác, không gian công cộng đang được tái định vị như một tài sản chiến lược của kinh tế đô thị, không chỉ là hạng mục phúc lợi xã hội. Đây chính là điểm TP Hồ Chí Minh cần nhìn thẳng và hành động dứt khoát: xem không gian công cộng như một loại "hạ tầng mềm" tạo giá trị gia tăng, có khả năng kích hoạt đầu tư tư nhân, gia tăng giá trị bất động sản và nâng cao năng suất đô thị.
Thông tin trên đã được các chuyên gia đưa ra tại buổi tọa đàm "Không gian công cộng - Từ biểu tượng đô thị đến động lực tăng trưởng kinh tế" do Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh (VTV9) tổ chức ngày 23/12. TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng tại Văn phòng ADB Việt Nam, đã chạm đúng vào gốc rễ vấn đề: muốn phát triển không gian công cộng thì phải có giao thông công cộng, bởi nếu thiếu kết nối thuận tiện, người dân sẽ không thể tập trung tại những nơi này. Ông nhấn mạnh rằng đường sắt đô thị cần thời gian, vì vậy điều có thể làm ngay là tăng độ phủ và chất lượng mạng lưới xe buýt.
Các chuyên gia cho rằng, không gian công cộng đang được tái định vị như một tài sản chiến lược của kinh tế đô thị, không chỉ là hạng mục phúc lợi xã hội
Nhận định của ông Hùng còn gợi ra một sự thật đáng suy ngẫm: chất lượng đô thị của TP Hồ Chí Minh còn thấp so với mặt bằng quốc tế khi chấm theo tiêu chuẩn của ADB, trong đó các yếu tố dịch vụ y tế, hạ tầng và môi trường văn hóa chiếm 65% tổng điểm đánh giá, bên cạnh tính ổn định và giáo dục. Con số 65% này đáng để thành phố đặt lên bàn như một "thước đo ưu tiên": muốn nâng hạng cạnh tranh, không thể chỉ chạy theo những dự án đơn lẻ, mà phải bồi đắp nền tảng chất lượng sống. Đây là lựa chọn ưu tiên mà nhà đầu tư dài hạn và nhân lực chất lượng cao cân nhắc trước khi đến và quyết định ở lại.
Từ góc nhìn thiết kế đô thị, kiến trúc sư David Ching, nhà sáng lập kiêm Chủ tịch David Ching & Partners, từng giữ chức Giám đốc Quy hoạch và Phát triển tại Vườn chim Jurong (Singapore), gọi các tuyến đường sắt đô thị là những "mạch máu", còn không gian mở là phần kết nối mọi thứ. Cách ví von ấy rất chính xác về mặt kinh tế: một tuyến metro hay xe buýt nhanh có thể đưa người đến ga, nhưng chỉ không gian công cộng chất lượng mới giữ họ ở lại, khiến khu vực quanh đó trở thành điểm đến, nơi hình thành giao dịch, dịch vụ, việc làm và các cụm sáng tạo. Nếu chỉ xây nhà cao tầng quanh ga mà thiếu quảng trường, thiếu vỉa hè đi bộ tử tế, thiếu các hành lang kết nối an toàn, thành phố có thể tăng mật độ, nhưng lại thất bại trong việc tạo "năng suất đô thị". Nơi mà giá trị từ sự gặp gỡ, trao đổi, cộng tác và tiêu dùng đang ở mức hạn chế.
Kiến trúc sư Steven Townsend, Giám đốc điều hành Studio Urban Design (SUDV), người từng tham gia quy hoạch khu đô thị Phú Mỹ Hưng và tái thiết không gian đô thị tại khu vực trung tâm, cũng nhấn mạnh rằng lợi ích chung mà cộng đồng mong muốn chính là không gian di chuyển tốt hơn; thậm chí khi điều kiện đủ, người dân sẽ tính tới việc đi làm bằng xe đạp thay vì ô tô hoặc xe máy. Câu chuyện ở đây không chỉ là "văn minh giao thông", mà là bài toán năng suất và chi phí: giảm thời gian đi lại, giảm tắc nghẽn, giảm ô nhiễm, tăng sức khỏe. Tất cả đều quy đổi thành lợi ích kinh tế trong dài hạn. Một siêu đô thị không thể chấp nhận việc dòng người và công việc bị bào mòn từng ngày bởi hạ tầng di chuyển khó khăn và không gian công cộng thiếu hấp dẫn.
Chìa khóa cho siêu đô thị
Nếu phần lớn các đô thị toàn cầu đã coi không gian công cộng là "hạ tầng mềm" để kích hoạt đầu tư tư nhân và gia tăng giá trị bất động sản, TP Hồ Chí Minh càng cần cách tiếp cận ấy, bởi thành phố còn dư địa lớn để khai thác hệ thống sông ngòi, kênh rạch, các không gian ven giao thông công cộng và nhiều khu đất công chưa được sử dụng hiệu quả.
Theo ông Sử Ngọc Khương, Giám đốc Cấp cao Bộ phận Đầu tư Savills Việt Nam, không gian công cộng không chỉ là công viên hay nơi đi bộ; đó còn là các tuyến hành lang di chuyển từ tòa nhà này sang tòa nhà kia, là những khoảng mở có thể tổ chức trải nghiệm và dịch vụ. Đáng chú ý, ông Khương cho rằng đôi khi không cần công trình biểu tượng; một bãi đất trống có thể trở thành nơi cắm trại cuối tuần, có hội chợ hay dịch vụ phù hợp để kéo người đến, tạo ra sức hút trải nghiệm.

TP Hồ Chí Minh còn nhiều dư địa lớn để khai thác hệ thống sông ngòi, kênh rạch công viên bờ sông.
Ngoài ra, TS. Nguyễn Bá Hùng cũng cho rằng, không gian công cộng mà chỉ phục vụ cộng đồng quanh đó thì hiệu quả thấp; muốn tạo cộng đồng lớn hơn, phải đưa được nhiều người đến hơn, thường xuyên hơn. Đây là điểm TP Hồ Chí Minh có thể hành động ngay bằng các tuyến xe buýt có độ phủ tốt, tổ chức trung chuyển hợp lý, và dần gắn kết với phát triển định hướng giao thông công cộng (TOD) như kinh nghiệm mà kiến trúc sư David Ching trình bày, đồng thời mở ra cơ chế hợp tác công - tư để giảm gánh nặng ngân sách và tăng hiệu quả vận hành. Khi tư nhân được tham gia đầu tư, khai thác dịch vụ, còn Nhà nước giữ vai trò thiết lập chuẩn mực, bảo đảm công bằng tiếp cận và lợi ích cộng đồng, "hạ tầng mềm" mới có dòng tiền bền vững để tự duy trì.
TP Hồ Chí Minh cũng cần coi sông Sài Gòn và hệ thống kênh rạch như "trục không gian công cộng" chứ không chỉ là hạ tầng thoát nước. Chính ông Townsend nhấn mạnh việc tăng cường không gian ven sông và kết nối hệ sinh thái liền mạch hơn. Ông David Ching khi so sánh Bangkok và TP Hồ Chí Minh cũng chỉ ra một "khoảng trống": hai thành phố đều có con sông lớn tương đồng về quy mô, nhưng TP Hồ Chí Minh chưa tận dụng tốt sông Sài Gòn, chưa "sống động" vào ban đêm. Ở đây, thành phố đang bỏ lỡ một lợi thế cạnh tranh hiếm có: một đường bờ sông đủ dài để tạo ra chuỗi điểm đến, thúc đẩy dịch vụ, du lịch, kinh tế đêm và các ngành công nghiệp sáng tạo.
Đầu tư cho không gian công cộng vì thế không phải chuyện làm đẹp, mà là chiến lược tăng trưởng. Khi TP Hồ Chí Minh dám đặt không gian công cộng vào trung tâm tư duy phát triển, siêu đô thị sẽ không còn là một mỹ từ, mà trở thành một năng lực thật, được tạo nên từ những bước chân, những cuộc gặp gỡ và những giá trị gia tăng sinh ra ngay trên vỉa hè, bờ sông và các khoảng mở của thành phố.
Bình luận (0)