Bệnh viêm phổi: Những điều cần biết

SKMN , icon
07:07 ngày 07/03/2013

 Viêm phổi là bệnh về đường hô hấp với tỷ lệ người mắc phải cao. Tỷ lệ người nhập viện với những biến chứng nguy hiểm, do hiểu biết sai lầm trong cách phòng và điều trị bệnh cũng ngày càng gia tăng.

Biến chứng của bệnh viêm phổi có thể dẫn tới tràn mủ màng phổi và tràn mủ màng tim. (Ảnh: images.wisegeek.com)

Khi phổi bị viêm, các phế nang bị tổn thương khiến dưỡng khí không thể đi vào máu do đó làm cho cơ thể, đầu tiên là vùng não bị thiếu dưỡng khí.

Hiện nay trong cộng đồng, bệnh viêm phổi vẫn là bệnh có tỷ lệ người mắc cao, vì thế những kiến thức để phòng tránh căn bệnh này trong cộng đồng là vô cùng quan trọng.

Chuyên mục Thầy thuốc trả lời đã có cuộc trao đối với TS Phan Thu Phương, Trung tâm hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai, về những vấn đề liên quan đến bệnh viêm phổi trong cộng đồng hiện nay.

BTV: Từ thực tế khám bệnh tại Bệnh viện Bạch Mai, TS Phan Thu Phương có thể cho biết thực trạng căn bệnh này diễn ra như thế nào?

TS Phan Thu Phương: Viêm phổi là một trong những bệnh lý về hô hấp thường gặp. Bệnh viêm phổi vẫn có thể có những biến chứng rất nặng dẫn tới tử vong. Ở nước ta, tỷ lệ mắc viêm phổi trong cộng đồng ước tính khoảng 12% trong các bệnh lý đường hô hấp.

Tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai, theo nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân viêm phổi phải nhập viện chiếm 9,5%. Cứ 100 bệnh nhân bị nhập viên do các bệnh về đường hô hấp thì có 10 bệnh nhân được chẩn đoán bị viêm phổi.

Không những ở Việt Nam mà ở những nước phát triển bệnh viêm phổi cũng khá phổ biến. Ở Mỹ, hàng năm có khoảng 3 - 4 triệu bệnh nhân được chẩn đoán bị viêm phổi. Ở Nhật Bản, nguyên nhân tử vong do viêm phổi đứng hàng thứ 4 trong các nguyên nhân tử vong ở nước này.

BTV: Vậy, bác sĩ có thể cho biết, bệnh viêm phổi được hiểu như thế nào cho đầy đủ?

TS Phan Thu Phương: Viêm phổi là hiện tượng nhiễm khuẩn ở vùng nhu môi phổi, viêm ở các túi phế nang, ống phế nang, tiểu phế quản và viêm vào các tổ chức kẽ. Viêm phổi có nhiều nhóm, thông thường chia ra viêm phổi mắc ở cộng đồng, mắc viêm phổi trong bệnh viện hoặc viêm phổi hít. Đối với mỗi loại viêm phổi có những đặc điểm, tính chất cũng như tiên lượng nặng nhẹ khác nhau.

Viêm phổi có thể lây truyền qua không khí, qua những cơ quan lân cận, lây truyền qua đường máu hoặc hít phải. Ví dụ, bệnh nhân hắt hơi, trong nước bọt bắn ra sẽ chứa vi khuẩn sau đó lọt qua đường hô hấp, đây cũng là nguyên nhân gây bệnh.

Viêm phổi theo đường lân cận của các cơ quan hô hấp trên, ví dụ ở họng, ở mũi. Tại các cơ quan này nếu có vi khuẩn thì người bệnh sẽ hít sâu xuống cơ quan hô hấp dưới làm phá vỡ những chế độ bảo vệ của cơ thể, từ đó gây ra viêm phổi.

BTV: Xin bác sĩ có thể cho biết những triệu chứng để có thể nhận biết việc mắc các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là bệnh viêm phổi?

TS Phan Thu Phương: - Triệu chứng hay gặp nhất là bệnh nhân có những biểu hiện của bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, dấu hiệu ho khan, ho khạc đờm, đờm màu trắng đục, màu xanh, vàng… đôi khi ho ra máu. Tuy nhiên, trường hợp viêm phổi ho ra máu cũng không có nhiều như các triệu chứng khác.

- Thứ 2, bệnh nhân mắc bệnh viêm phổi thường có những biểu hiện sốt.

- Ngoài ra những tổn thương ở phổi sát vùng mang phổi sẽ khiến bệnh nhân có những biểu hiện đau ngực.

Triệu chứng của bệnh viêm phổi rất đa dạng, người bị nhiều người bị ít… Tuy nhiên, có 3 trường hợp nêu trên thường xuyên gặp. Nếu trong trường hợp tổn thương phổi nặng, bệnh nhân sẽ kèm theo dấu hiệu khó thở, nhịp tim nhanh, thể trạng suy kiệt. Đó là những dấu hiệu cần nhanh chóng nhận biết để phát hiện bệnh viêm phổi.

BTV: Khi mắc bệnh viêm phổi, người bệnh cần tiến hành thăm khám như thế nào?

TS Phan Thu Phương: Khi có những dấu hiệu như trên và thấy dấu hiệu sức khỏe yếu đi, mệt mỏi… đặc biệt nặng ngực cần phải đi đến các cơ sở y tế để các bác sĩ thăm khám, chẩn đoán bệnh. Bác sĩ phải làm những xét nghiệm như xét nghiệm máu, chụp X quang tim phổi, đặc biệt muốn tìm căn nguyên gây bệnh.

Khi tìm được căn nguyên của bệnh, sẽ giúp cho các bác sĩ có được sự lựa chọn phác đồ điều trị, lựa chọn nhóm kháng sinh và những điều trị hỗ trợ khác.

Nếu cần thiết, phải làm thêm những xét nghiệm chuyên khoa sâu như: tìm vi khuẩn trong đờm hoặc vi khuẩn trong những dịch phế quản. Qua việc tìm vi khuẩn như vậy, các bác sĩ có thể làm kháng sinh đồ để xem vi khuẩn đó nhạy với kháng sinh nào và tiến hành điều trị.

BTV: Cụ thể hiện nay tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai đang tiến hành điều trị cho bệnh nhân viêm phổi như thế nào, thưa bác sĩ?

TS Phan Thu Phương: Trung tâm chúng tôi cũng là một trong những nơi điều trị nhiều bệnh nhân viêm phổi. Bệnh nhân đến khám và xét nghiệm tại Trung tâm để đánh giá mức độ của bệnh. Trong trường hợp bệnh nhẹ sẽ kê đơn điều trị tại nhà, trong trường hợp bệnh nhân tiên lượng nặng sẽ cho điều trị nội trú.

Đồng thời, sau khi xác định được độ nặng nhẹ của bệnh sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Khi đã nhập viện điều trị đối với những bệnh nhân nặng thì phải theo dõi sát sao để biết được bệnh nhân có những biến chứng của viêm phổi hay không. Biến chứng của viêm phổi rất nhiều và có nhiều trường hợp rất nặng mặc dù bệnh nhân đã được điều trị đúng phác đồ, điều trị tích cực nhưng nguy cơ tử vong của bệnh nhân vẫn có.

Biến chứng thì sẽ có biến chứng gặp ở phổi, bệnh nhân điều trị sẽ có hiệu quả rất chậm, có thể biến chứng thành các ổ abcess (Áp xe) ở phổi. Tổn thương viêm phổi biến chứng abcess có thể vỡ ra màng phổi gây tràn mủ màng phổi.

Bệnh nhân trong tình trạng nặng sẽ gây ra tình trạng sốc, tụt huyết áp, suy hô hấp… và những biến chứng xa hơn như gây tràn mủ màng phổi, tràn mủ màng tim hoặc gây nhiễm khuẩn huyết.

Kết quả của việc đánh giá, theo dõi mà các bác sĩ lựa chọn kháng sinh tùy theo mức độ, có thể dùng một loại hoặc có thể kết hợp nhiều kháng sinh. Sau khi điều trị kháng sinh gần 2 - 3 ngày thấy đáp ứng trên lâm sàng thì phải đổi kháng sinh, làm những xét nghiệm để làm kháng sinh đồ xem loại vi khuẩn nào để có cách điều trị.

Bên cạnh đó, phải phát hiện sớm những biến chứng để can thiệp kịp thời, nếu bệnh nhân có tình trạng sốc, suy hô hấp, khó thở phải cho bệnh nhân thở Oxy hoặc nặng hơn phải nhờ máy để can thiệp. Tình trạng sốc cũng phải truyền dịch, nâng huyết áp để đảm bảo duy trì sự sống cho bệnh nhân.

Cùng chuyên mục