Sàng lọc ung thư cổ tử cung được thực hiện như thế nào?

P.V, icon
07:13 ngày 03/01/2021

VTV.vn - Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ, đặc biệt trong độ tuổi 30 trở lên.

Theo Ghi nhận ung thư 2020, Việt Nam có khoảng hơn 4.000 ca mắc mới và có 2.223 ca tử vong vì ung thư cổ tử cung. Phần lớn người bệnh đến khám và điều trị khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Những con số trên như hồi chuông cảnh báo để chị em phụ nữ quan tâm hơn đến sức khỏe của mình.

Chuyên gia Bệnh viện K khuyến cáo: Sàng lọc, phát hiện sớm ung thư là phương pháp tốt nhất giúp phát hiện những bất thường, dấu hiệu tiền ung thư, hoặc ung thư giai đoạn sớm, trước khi bệnh gây ra các triệu chứng và cơ hội điều trị thành công cao. Chị em phụ nữ nên đi khám phụ khoa định kỳ và làm xét nghiệm sàng lọc ung thư cổ tử cung theo chỉ định của bác sĩ, cùng với tiêm phòng vaccine cho trẻ em gái, đây là cách phòng tránh và phát hiện sớm nhất bệnh ung thư cổ tử cung.

Nguyên nhân ung thư cổ tử cung là do sự tồn tại của virus HPV. HPV được phát hiện trong 99% khối u cổ tử cung, đặc biệt là HPV type 16 và 18.

Việc sàng lọc ung thư là rất quan trọng. Các phương pháp sàng lọc ung thư hiện nay gồm có xét nghiệm tế bào học Pap smear, xét nghiệm HPV, khám cổ tử cung với test acetic.

Từ nhiều năm trước Pap test là phương pháp tiêu chuẩn để sàng lọc ung thư cổ tử cung, giảm tỷ lệ mắc bệnh 60 - 90% và giảm tỷ lệ tử vong 90%. Tuy nhiên, giới hạn của test tế bào là độ nhạy 50%. Gần đây, HPV test đã được đưa vào chương trình sàng lọc, DNA của HPV có mặt trong hầu như tất cả ung thư cổ tử cung và độ nhạy cao hơn cho tổn thương CIN 2+ so với xét nghiệm tế bào ở vài nghiên cứu.

Các phương pháp sàng lọc

Sàng lọc ung thư cổ tử cung để phát hiện những tổn thương tiền ung thư và nhờ đó điều trị phù hợp những tổn thương này trước khi tiến triển thành ung thư xâm nhập. Sàng lọc có thể được thực hiện với Pap test hay HPV test hoặc kết hợp cả hai.

Lấy mẫu như thế nào? Mẫu tế bào cổ tử cung và mẫu HPV được lấy trong quá trình đặt mỏ vịt. Với một số mẫu Pap test, có thể 1 mẫu sử dụng cho cả 2 test, một số khác thì lấy thành hai mẫu riêng biệt.

Xét nghiệm tế bào (Pap test) trong sàng lọc ung thư cổ tử cung

Mẫu xét nghiệm tế bào - có 2 loại mẫu xét nghiệm tế bào: 1 loại là Pap smear truyền thống, một loại là có dung dịch lỏng cố định Thinprep. Cả 2 phương pháp, tế bào đều được lấy cả ở bề mặt cổ ngoài và cổ trong cổ tử cung để đánh giá vùng chuyển tiếp, vùng có nguy cơ ung thư cổ tử cung cao nhất.

Xét nghiệm HPV trong sàng lọc ung thư cổ tử cung

Theo Tổ chức y tế thế giới, giải phẫu bệnh của ung thư cổ tử cung: ung thư biểu mô vảy, ung thư biểu mô tuyến và các loại khác : ung thư tuyến vảy cổ tử cung, ung thư thần kinh nội tiết và ung thư không biệt hóa. Ung thư biểu mô vảy chiếm 70 - 8%, ung thư biểu mô tuyến chiếm 20 - 25%. Những type hiếm gặp khác gồm có tế bào sáng và ung thư biểu mô tuyến (mesopheric adenocarcinoma) dường như không liên quan đến HPV.

3 Test HPV được Tổ chức quản lý thực phẩm và dược phẩm của Mỹ (FDA) chấp nhận đã cho kết quả tất cả type nguy cơ cao. Test HPV cobas cho kết quả xác định HPV type 16 và 18 và 12 type khác được áp dụng cho sàng lọc.

Các phương pháp lấy mẫu xét nghiệm HPV khác

Xét nghiệm nước tiểu cho HPV đã được đề xuất, nhưng không có sẵn trên lâm sàng. Phương pháp thử nghiệm này có thể có ích nếu xét nghiệm HPV đơn thuần (không có xét nghiệm tế bào cổ tử cung) được sử dụng để sàng lọc ung thư cổ tử cung.

Khám cổ tử cung với test acetic (VIA)

Sử dụng việc nhìn bằng mắt kết hợp với test acetic, sau đó điều trị làm giảm tỉ lệ mắc ung thư cổ tử cung so với không sàng lọc. Xét nghiệm Pap test được coi là tiêu chuẩn để sàng lọc ung thư cổ tử cung, giảm tỉ lệ mắc bệnh 60 - 90% và giảm tỷ lệ tử vong 90%. Tuy nhiên, giới hạn của xét nghiệm tế bào độ nhạy khoảng 50%.

Gần đây, test HPV được đưa vào như công cụ sàng lọc HPV vì HPV có ở hầu hết ung thư cổ tử cung và có độ nhạy cao hơn cho tổn thương CIN 2 hơn là xét nghiệm tế bào trong vài nghiên cứu. Pap test cũng ảnh hưởng bởi sự chủ quan và kinh nghiệm của bác sĩ giải phẫu bệnh, việc đọc lập đi lập lại rất nhiều lần các tiêu bản có thể gây ra mệt mỏi, làm ảnh hưởng đến kết quả. Kết hợp hai test sàng lọc ung thư cổ tử cung: xét nghiệm HPV và xét nghiệm Pap tế bào học cổ tử cung giúp làm tăng độ nhạy và độ đặc hiệu cho kết quả, hạn chế được bỏ sót bệnh cũng như điều trị quá mức với bệnh nhân, khắc phục được nhược điểm của 2 xét nghiệm.

Kết xét nghiệm HPV và quan sát với acid actic (VIA) giúp cân bằng điểm mạnh và điểm yếu của mỗi xét nghiệm, để tối đa hóa sàng lọc, làm tăng độ nhạy và đặc hiệu của xét nghiệm. Việc kết hợp 2 test có thể theo hai cách, sàng lọc dương tính nếu kết quả bất thường thì làm test thứ hai, hoặc làm cả 2 test đồng thời.

Phụ nữ dưới 30 tuổi nên sàng lọc pap test 1 lần mỗi 3 năm. Phụ nữ trên 30 tuổi có thể xét nghiệm sàng lọc 1 năm 1 lần.

Dự phòng ung thư cổ tử cung

Ngày nay, để dự phòng ung thư cổ tử cung, đã có 3 loại vaccine được cấp phép và đang được sử dụng: vaccine 2 type HPV (HPV 16 và 18), vaccine 4 type HPV (bao gồm thêm type 5 và 11 gây ra 90% u vùng sinh dục), vaccine 9 type HPV (bao gồm thêm HPV31,33,45,52,58 - 15% type HPV gây ung thư ở nữ và 4% type HPV gây ung thư ở nam).

Cả hai nhóm vaccine cho 2 loại HPV và vaccine cho 4 loại HPV đều có hoạt động bảo vệ qua lại có ý nghĩa chống lại các type HPV khác. Cả 3 loại vaccine đề hiệu quả chống lại nhiễm HPV và tân sản ở cổ tử cung, âm đạo, âm hộ và hậu môn.

Báo cáo sau khi được cấp phép sử dụng vaccine tại các nước mà thiết lập chương trình vaccine HPV có hiệu quả ở quần thể sớm sau 3 năm đưa vaccine HPV vào chương trình tiêm chủng, bao gồm giảm tỷ lệ mắc bệnh CIN grade cao, giảm tỷ lệ nhiễm các chủng HPV và giảm tỷ lệ u sinh dục. Sử dụng vaccine dự phòng HPV có thể hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhiễm virus và bệnh liên quan đến type virus mà vaccine chống lại. Hiệu quả của vaccine trong gánh nặng ung thư được xác định, được mong đợi giảm trên 70% của ung thư cổ tử cung.

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV OnlineVTVGo!

Cùng chuyên mục