Từ 2.000 cá thể voi hoang dã vào năm 1980, hiện nay nước ta chỉ còn khoảng từ 120 -150 cá thể, tập trung ở 11 khu vực trong cả nước, chủ yếu là Đắc Lắc, Đồng Nai, Nghệ An, Hà Tĩnh... Theo các Tổ chức Bảo tồn, số lượng voi giảm đến 95% so với 40 năm trước. Việc bảo tồn các cá thể voi hoang dã được xem là rất quan trọng.
Vườn quốc gia Yok Don - vùng đất nắng do chủ yếu là rừng Khộp, kiểu rừng thưa cây lá rộng rụng lá theo mùa. Đây chính là thời điểm di chuyển tìm nước và thức ăn của nhiều quần thể voi hoang dã còn sót lại. Nhưng những dấu vết để tìm kiếm chúng từ dấu chân và phân voi đã không còn nhiều.
Một cá thể voi trong rừng
Cây Lê trúc là một trong thức ăn ưa thích của voi. Tại buôn Đrang Phôck, vùng lõi của Vườn quốc gia Ydon chỉ cách biên giới Campuchia khoảng 30km, có rất nhiều loại cây này. Nơi đây vừa tập trung nguồn nước, thức ăn và là khu vực nương rẫy của bà con dân tộc Êđê, M’Nông, trong vùng di chuyển tìm kiếm thức ăn của voi. Trong năm 2020, còn phát hiện dấu vết của loài này nhưng tần suất và số lượng đàn giảm nhiều so với những năm trước.
Các chuyên gia bảo tồn cũng cho rằng, ngoài việc thiếu nguồn thức ăn, sinh cảnh bị thu hẹp khiến vùng di chuyển của voi bị chia cắt, các hoạt động ở khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia cũng là nguyên nhân khiến voi ít xuất hiện. Trong các đàn hiện nay, số cá thể voi già chiếm đa số, voi non và voi trưởng thành chiếm tỷ lệ ít. Số voi cái nhiều hơn số voi đực. Những chỉ số trên ảnh hưởng tiêu cực đến việc sinh sản tạo ra thế hệ con cái bảo đảm tính bền vững, đây là những yếu tố khó khăn trong bảo tồn và phát triển bền vững voi hoang dã.
* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online và VTVGo!