Liệu giai đoạn tăng lãi suất sẽ thực sự chấm dứt?

P.V-Thứ tư, ngày 28/06/2023 08:25 GMT+7

VTV.vn - Tại Mỹ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã chính thức tạm dừng tăng lãi suất sau 10 lần tăng liên tiếp, trong khi đó, lạm phát cũng đang dần hạ nhiệt ở các quốc gia.

Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã đi trước trong việc giảm lãi suất điều hành, tính đến nay cũng đã có 4 lần hạ lãi suất liên tiếp giúp thanh khoản trên thị trường chứng khoán gia tăng mạnh mẽ trở lại. 

Trao đổi trong Talk show Phố Tài Chính (The Finance Street Talk Show) trên VTV8, các chuyên gia đánh giá lãi suất tại Mỹ đã gần chạm đỉnh, trong khi đó Việt Nam sẽ vẫn còn dư địa để giảm lãi suất thêm nữa… Phản ứng trước những thông tin trên, cả thị trường chứng khoán thế giới lẫn Việt Nam đều đã có sự phục hồi tích cực. Tại châu Âu, các thị trường chứng khoán đã tăng trung bình khoảng 13%, đặc biệt là Đức tăng hơn 20%, còn thị trường chứng khoán Nhật Bản cũng đã tăng trở lại 27%, trong khi đó tại Mỹ tăng 20%... Còn thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ phục hồi khoảng 10%. Chính vì vậy, dự báo với các thông tin hỗ trợ cùng mức thanh khoản như hiện tại thì thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ còn tăng trưởng thêm trong thời gian tới…

Liệu giai đoạn tăng lãi suất sẽ thực sự chấm dứt? - Ảnh 1.

BTV Mùi Khánh Ly: Như hai ông cũng đã thấy, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã chính thức tạm dừng tăng lãi suất sau 10 lần tăng liên tiếp, vậy theo các ông, có khả năng FED sẽ quay đầu giảm lãi suất hay chưa?

Ông Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, Công ty CP chứng khoán BIDV (BSC): Trong suốt thời gian hơn 40 năm vừa qua, chu kỳ tăng lãi suất vừa rồi của FED là một chu kỳ tăng lãi suất nhanh nhất trong lịch sử, cả 10 lần họp thì cả 10 lần đều ra quyết định tăng lãi suất. Và phải đến thời điểm tháng 6 vừa rồi, FED mới có lần tạm dừng tăng lãi suất đầu tiên. Điều này cho thấy chúng ta đã nhìn thấy dấu hiệu đỉnh của lãi suất đối với chính sách của FED đã đến rất gần rồi. Theo như biểu đồ dot-plot công bố sau buổi họp thì đa số các thành viên cho rằng có thể sẽ có từ một cho đến hai lần tăng lãi suất nữa trong năm nay và như vậy, mặt bằng từ 5,25% cho đến khoảng 5,75%, đây có thể là một vùng lãi suất mà tôi nghĩ là đã tiệm cận được với lãi suất đỉnh rồi.

Theo dõi chỉ số lạm phát chung toàn cầu thì chúng tôi thấy từ cuối năm ngoái, chỉ số này đã bắt đầu suy giảm khá tốt. Và dự kiến cuối năm nay, mức lạm phát chung của toàn cầu sẽ rơi vào khoảng 5,3%, một mức gần như xấp xỉ với mức lãi suất điều hành của FED hiện tại, và sang đến năm 2024 thì hy vọng sẽ về mức khoảng 4%. Điều đấy cho thấy dư địa cho các chính sách lãi suất của các ngân hàng trung ương để tăng tiếp sẽ không còn nhiều như trước, chính sách lãi suất của họ đã bắt đầu tạo đỉnh và chờ những dấu hiệu tiếp theo để có nhịp điều chỉnh đi xuống.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích, Maybank Investment Bank: Theo dõi những số liệu về vĩ mô của Mỹ, cũng như trong biểu đồ dot-plot, là biểu đồ tổng hợp phần cá dự đoán của các bên liên quan thì vẫn đang kỳ vọng phải có hai đợt tăng nữa. Mục tiêu lạm phát mà FED muốn đạt được là xuống dưới mức 2% về dài hạn. So với mức mục tiêu đó và mức hiện tại, chúng tôi cho rằng vẫn còn một quãng đường nữa mà FED phải đi. Thậm chí, chúng ta có thể phải chờ đợi một kịch bản FED có thể tăng lãi suất ít nhất là một lần nữa, khoảng 0,25%, sau đó lãi suất sẽ được giữ nguyên trong cả năm, cho đến khi lạm phát gần tiệm cận với mục tiêu mà họ mong muốn, thì chúng ta mới có thể chờ đợi là FED chuyển hướng chính sách, hoặc là khi nền kinh tế Mỹ có chiều hướng suy yếu nhanh hơn dự kiến. Nhưng hiện tại, các chỉ số về thị trường lao động của Mỹ vẫn đang mạnh nên chúng tôi cho rằng năm nay chúng ta chưa thể kì vọng là có việc giảm lãi suất ngay.

BTV Mùi Khánh Ly: Trong bối cảnh đó, nhiều ý kiến cho rằng các nền kinh tế trên thế giới, thay vì lo lắng về lạm phát và lãi suất tăng, thì cần tính đến khả năng xảy ra suy thoái kinh tế toàn cầu, ý kiến của các ông thì sao?

Liệu giai đoạn tăng lãi suất sẽ thực sự chấm dứt? - Ảnh 2.

Ông Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, Công ty CP chứng khoán BIDV (BSC): Từ khóa "suy thoái" là từ đã được nhắc đến từ cuối năm ngoái. Chúng ta hình dung suy thoái là một thuật ngữ chỉ một khoảng thời gian một nền kinh tế tăng trưởng chậm hoặc là tăng trưởng suy giảm. Và suy thoái cũng không phải là quá đáng sợ vì nó cũng là một phần của một chu kì. Theo định nghĩa, khi tăng trưởng âm liên tiếp 2 quý hoặc là tăng trưởng chậm lại so với cả mức trung bình trong vòng 2 quý liên tiếp thì phần nào đó nền kinh tế đã đi vào suy thoái nhẹ. Ở Châu Âu, những quốc gia như Anh, Đức đã ở pha suy thoái rồi. Các nền kinh tế lớn như Mỹ thì họ vẫn đang ở giai đoạn mà người ta gọi là late cycle về chu kỳ tăng trưởng kinh tế, điểm cuối cùng trước khi chuyển sang giai đoạn có sự suy thoái hay không.

Còn kinh tế Trung Quốc thì họ đã vượt qua suy thoái, họ đang bước vào một chu kỳ phục hồi mới. Như vậy, có thể thấy rằng các quốc gia sẽ không đi theo một chu trình giống như nhau, nhưng về cơ bản thì suy thoái đã diễn ra ở một số quốc gia và trong số các quốc gia đấy có những quốc gia là bạn hàng lớn của Việt Nam. Nền kinh tế của chúng ta trong thời gian sắp tới tôi nghĩ cũng sẽ tiếp tục có những khó khăn nhất định, tuy nhiên, một số quốc gia đã bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi, nên nếu có một đợt suy thoái thì cũng sẽ diễn ra một cách nhẹ nhàng hơn.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích, Maybank Investment Bank: Hiện tại, mức dự đoán nền kinh tế Mỹ sẽ rơi vào suy thoái đang ở tỷ lệ khoảng 70% và mức độ suy thoái thì mọi người đang kỳ vọng chỉ ở mức độ suy thoái nhẹ và khoảng thời gian bắt đầu từ quý I năm sau, chứ chưa phải diễn ra ngay. Cộng với mục tiêu lạm phát như chúng tôi phân tích ở trên, FED vẫn còn một chặng đường nếu chúng ta so sánh từ đỉnh lạm phát cho đến mức lạm phát mục tiêu. Bởi vì, đối với cơ quan quản lý nhà nước thì lạm phát là điều đáng sợ hơn mục tiêu về tăng trưởng. Do lạm phát một khi đã trượt khỏi tầm tay sẽ gây ra những yếu tố khó kiểm soát. Như vậy, FED sẽ tiếp tục kiên định với mục tiêu lạm phát của mình trước, trước khi tính đến các yếu tố về suy thoái kinh tế.

BTV Mùi Khánh Ly: Tại Việt Nam, NHNN đã có sự phản ứng đi trước, hạ lãi suất hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp. Và sau những diễn biến mới từ các nền kinh tế đầu tàu, NHNN Việt Nam còn dư địa để giảm tiếp hay không, theo hai ông?

Ông Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, Công ty CP chứng khoán BIDV (BSC): Ngay khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiến hành hạ lãi suất, phải nói đây là Ngân hàng Nhà nước đầu tiên trong số các ngân hàng trung ương vào thời điểm đó có một chính sách đi trước khá tốt. Và ngay sau đó, chúng ta thấy các ngân hàng trung ương, đặc biệt là FED có dấu hiệu cho thấy là họ sẽ sớm tạo đỉnh lãi suất. Hiện, chỉ số lạm phát ở Mỹ đã giảm rất tốt nhưng nó vẫn ở mức khoảng 4% so với năm ngoái, nếu so với kỳ vọng thì vẫn còn khoảng cách 2% nữa.

Trong khi đó, tại thị trường Việt Nam, mức lạm phát mục tiêu trong năm nay là khoảng 4,5%, và đến giữa năm lạm phát của chúng ta ở mức khoảng 3,5%, cho thấy rằng phần nào chúng ta đang kiểm soát được tương đối tốt hơn so với một số quốc gia khác. Do vậy, diễn biến liên quan đến chính sách tiền tệ của chúng ta có chuyển biến nhanh hơn quốc gia khác. Còn nói về dư địa thì cá nhân tôi thấy rằng, trước khi có đợt tăng lãi suất do sức ép tăng lãi suất trên toàn cầu, chính sách lãi suất của Việt Nam với lãi suất điều hành khoảng 4%, hiện tại chúng ta đang giảm về mức tầm 4,5%, như vậy chúng ta vẫn còn dư địa cho những đợt giảm tiếp theo, nhưng sẽ cần nhiều thời gian hơn để cho những người làm chính sách họ ước tính mức độ ảnh hưởng của các chính sách giảm lãi suất vào tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam như thế nào, để có sự điều tiết phù hợp cho những lần giảm lãi suất tiếp theo.

Liệu giai đoạn tăng lãi suất sẽ thực sự chấm dứt? - Ảnh 3.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích, Maybank Investment Bank: Nếu so sánh với thị trường Mỹ thì kinh tế Việt Nam chúng ta lại hơi đặc biệt, khi cuối tháng 10 chúng ta phải đẩy việc tăng lãi suất lên rất mạnh để kiểm soát vấn đề về tỷ giá. Khi lãi suất tăng mạnh như vậy cộng với tình trạng thanh khoản bị hạn chế đã làm ảnh hưởng đến phần tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cộng với việc thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã gây ra một hiệu ứng làm ảnh hưởng đến phần thu nhập của nhiều người dân và doanh nghiệp. Và GDP quý I vừa rồi chỉ tăng trưởng trên 3,3%, gần với mức thời COVID-19. Điều đó khiến cho cơ quan quản lý nhà nước phải đánh giá lại tình hình. Bên cạnh đó, nhìn sang bối cảnh xuất khẩu cũng như là việc thu hút vốn FDI cũng bị chậm lại thì chúng ta đã phải tiến hành cắt giảm lãi suất điều hành sớm hơn các nước khác. 

Lạm phát của Việt Nam cũng đã giảm nhanh hơn so với các nước khác, về mức dưới 3% trong hồi tháng 5 vừa rồi, và chắc tháng 6, lạm phát vẫn sẽ rất ổn, cộng với việc năm nay tỷ giá không còn áp lực nào nữa, cùng với các chính sách hỗ trợ kinh tế phục hồi trở lại, chúng ta đã cắt lãi suất điều hành bốn lần. Nhưng có một phần lãi suất rất quan trọng, đó là trần lãi suất tiền gửi dưới sáu tháng chúng ta mới giảm ba lần, như vậy lãi suất huy động đã giảm nhanh hơn lãi suất cho vay. Nguồn vốn huy động ở mức lãi suất cao trong giai đoạn 3 - 4 tháng trước vẫn còn ảnh hưởng đến chi phí vốn của ngân hàng. 

Chính vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi, sẽ mất khoảng 3 - 4 tháng nữa để có thể nhìn thấy tác động của việc cắt giảm lãi suất điều hành, nó lan qua lãi suất cho vay. Và chúng tôi tính toán, để lãi suất cho vay trở lại mức bình thường và gọi là khỏe mạnh cho nền kinh tế, thì lãi suất cho vay phải giảm khoảng 1,5% so với mức hiện tại. Dựa trên phân tích như vậy, chúng tôi rằng lãi suất điều hành của Việt Nam vẫn có thể giảm thêm ít nhất là 0,5% nữa, có thể là trong vòng ba tháng tới.

BTV Mùi Khánh Ly: Thực tế thì cả thị trường chứng khoán thế giới và Việt Nam đã có những phiên phục hồi tích cực sau những diễn biến tốt hơn từ nền kinh tế và các chính sách hỗ trợ, vậy theo các ông, đà phục hồi này sẽ tiếp diễn trong bao lâu?

Ông Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, Công ty CP chứng khoán BIDV (BSC): Khi theo dõi những diễn biến của thị trường chứng khoán quốc tế, các quốc gia Châu Âu mặc dù đã đi vào kì suy thoái, và thị trường chứng khoán của họ đã tăng trưởng trung bình khoảng 13%, đặc biệt là Đức tăng trưởng hơn 20%. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán Nhật Bản cũng đã tăng đến 27%, hay là Hoa Kỳ tăng với mức trung bình khoảng 20%, trong đó riêng chỉ số Nasdaq đã tăng tới 30%, đã xóa hết phần lớn mức giảm điểm của năm ngoái. 

Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã có tăng trưởng khá tốt từ đầu năm đến nay, khoảng 10%, nhưng nếu so với các thị trường khác thì chúng ta mới có sự tăng trưởng bình thường. Nên tôi nghĩ là từ giờ cho đến cuối năm và thậm chí là năm sau ta vẫn còn về kỳ vọng nhất định cho việc tăng điểm của thị trường, dựa trên cơ sở các chính sách của chúng ta về mặt tiền tệ, về mặt tài khóa đều đang hỗ trợ cho tăng trưởng nhiều hơn và thứ hai là đối với cả các nhà đầu tư , họ cũng đã bắt đầu dần dần tự tin vào thị trường và tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt hơn.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích, Maybank Investment Bank: Xét về thị trường chứng khoán, có hai yếu tố sẽ tác động trực tiếp đến xu hướng của thị trường. Yếu tố đầu tiên đó là yếu tố về lãi suất và thanh khoản, yếu tố thứ hai đó là kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng lợi nhuận của doanh nghiệp. Đối với yếu tố lãi suất và thanh khoản thì chúng ta đã thấy trạng thái chuyển đổi từ thắt chặt từ hồi cuối quý IV/2022 và thậm chí đầu quý I/2023 vừa rồi sang trạng thái nới lỏng hơn, lãi suất giảm và thanh khoản bắt đầu quay trở lại, điều đó đã giúp cho thị trường phục hồi tốt trong giai đoạn vừa qua. 

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có mức sinh lời khoảng tầm 10-11%, tốt nhất trong khu vực ASEAN. Và chúng tôi thấy rằng, lãi suất giảm giúp cho thanh khoản duy trì ở mức 700 đến 800 triệu USD/ngày như thế này hoàn toàn khả thi và có thể giúp thị trường tăng trưởng thêm một chặng nữa, theo chúng tôi kỳ vọng đâu đó khoảng 7%. Sau đó, thị trường sẽ chuyển sang tập trung vào câu chuyện đánh giá tốc độ phục hồi của kinh tế và doanh nghiệp, đối với yếu tố này sẽ có nhiều biến số hơn. Mặc dù chúng ta có câu chuyện về lãi suất giảm, rồi có đẩy mạnh đầu tư công nhưng bên cạnh đó, các yếu tốt liên quan đến tình hình xuất khẩu có phục hồi kịp hay không, kinh tế Mỹ liệu có suy thoái như thế nào, hay kinh tế Trung Quốc phục hồi ra sao… vẫn còn khó đoán định.

BTV Mùi Khánh Ly: Nếu đi vào sâu hơn, chúng ta đều thấy là trong thời gian qua nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn như ngân hàng chẳng hạn giao dịch lại có vẻ không sôi động bằng nhóm vốn hóa vừa và hóa nhỏ, liệu thời gian tới nhóm vốn hóa lớn có bứt phá hơn không theo các ông?

Ông Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, Công ty CP chứng khoán BIDV (BSC): Điều này rất chính xác, từ đầu năm đến nay nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn chỉ tăng trưởng khoảng 10% về giá, trong khi nhóm cổ phiếu vốn hóa nhỏ và vừa, đặc biệt là nhóm cổ phiếu vốn hóa nhỏ lại tăng trưởng xấp xỉ 20%, gấp đôi so với nhóm còn lại. 

Điều này có thể lý giải như sau, trước đây thị trường chứng khoán đã giảm mạnh với hơn 33%, những cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ đã giảm nhiều nhất, thì khi thị trường phục hồi trở lại, nhóm này sẽ bật tăng mạnh hơn nhóm khác. Thứ hai, từ đầu năm đến nay, nhà đầu tư nước ngoài sau giai đoạn mua ròng thì trong một, hai tháng gần đây họ có xu hướng bán ròng là chính, điều này một phần đến từ việc chênh lệch lãi suất, khi lãi suất ở thị trường phát triển, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ tăng rất nhanh, trong khi lãi suất điều hành ở Việt Nam lại giảm xuống. Do vậy, dẫn đến việc các nhà đầu tư nước ngoài đã bán ngắn hạn ở thị trường Việt Nam và chuyển lại tiền về các thị trường khác. Và những nhà đầu tư nước ngoài, họ thường nắm giữ những cổ phiếu có vốn hóa lớn trên thị trường, đặc biệt là top những cổ phiếu hàng đầu.

Thị trường chứng khoán Việt Nam có cơ cấu nhóm ngành với nhóm ngành lớn nhất là ngân hàng chiếm khoảng 37% vốn hóa, sau đó là nhóm bất động sản với 17%, rồi đến ngành vật liệu khoảng 10%, nhóm ngành tiêu dùng xấp xỉ 10%. Tổng cộng những nhóm ngành này chiếm khoảng gần ¾ vốn hóa của thị trường. Trong số các ngành đó, quy mô của ngành ngân hàng so với VN-Index là chiếm tỷ trọng lớn nhất và ảnh hưởng nhiều nhất đến thị trường. 

Trong suốt giai đoạn vừa rồi, chúng ta đã thấy những rủi ro có gia tăng ở nhóm này do lãi suất tăng rất mạnh vào cuối năm, rồi rủi ro về trái phiếu doanh nghiệp, và những lo ngại đó đã phản ánh vào giá của nhóm này trên thị trường. Nhưng chuyển sang giai đoạn hiện nay, khi kết quả kinh doanh dần được đưa ra, nhiều ngân hàng vẫn khá tốt về hoạt động kinh doanh, những rủi ro liên quan đến nợ xấu hay liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp vẫn nằm trong vùng kiểm soát. Điều quan trọng nhất là hiện nay nhiều ngân hàng đang có mức định giá hợp lý cho việc đầu tư dài hạn. Nhìn chung đang có cơ hội đối với nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn, đặc biệt là từ nửa sau của năm.

Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích, Maybank Investment Bank: Nếu chúng ta nhìn vào cấu trúc của thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có một đặc điểm là nhà đầu tư cá nhân hiện đang chiếm tỉ trọng rất cao, hơn 85% trong tổng giao dịch hàng ngày. So với các nước ASEAN trung bình chỉ đâu đó 34%, thì đây là một tỉ lệ rất cao. Và đặc điểm của dòng tiền cá nhân là họ sẽ chạy theo những phân tích kỹ thuật, hay theo những yếu tố về tâm lý hoặc những câu chuyện ngắn hạn. Như vậy, những cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ sẽ tạo ra hiệu ứng tăng giá tốt hơn so với những cổ phiếu vốn hóa lớn. 

Trong khi đó, dòng tiền của nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là dòng tiền của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài vẫn chưa quay trở lại thị trường một cách rõ ràng. Chỉ khi nào chúng ta bước vào trạng thái kinh tế phục hồi tốt hơn, đặc biệt là những vấn đề nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm như thị trường trái phiếu doanh nghiệp được khắc phục chưa, thị trường bất động sản đã có những chính sách như thế nào… lúc đó dòng tiền ngoại mới quay lại. Khi đó, chúng ta mới có thể kỳ vọng dòng tiền vào thị trường sẽ mạnh mẽ hơn đối với nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn. 

Theo quan điểm của chúng tôi, càng giai đoạn về cuối năm, khi triển vọng về phục hồi kinh tế cũng như các ngành, hay những công ty lớn chứng tỏ được nội lực trong việc đi qua cơn bão và họ vẫn duy trì được tăng trưởng tốt thì dòng tiền sẽ quay lại dần đối với nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn.

BTV Mùi Khánh Ly: Xin cảm ơn hai ông về những thông tin vừa rồi!

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV OnlineVTVGo!

Cùng chuyên mục

TIN MỚI

    X

    ĐANG PHÁT

    Bản tin thời tiết chào buổi sáng 3 phút trước